Pages

Thứ Bảy, 12 tháng 10, 2019

Bản án về hợp đồng dịch vụ

- Thành phần Hội đồng xét xử sơ thẩm gồm có:
Thẩm phán – Chủ tọa phiên tòa: Ông Trần Hoài Nam
Các hội thẩm nhân dân:
Bà Lương Thị Huyền
Ông Đào Minh Đức
- Thư kí phiên tòa : Bà Vi Hải Yến – Thư Ký Tòa án nhân dân huyện Qùy Châu , tỉnh Nghệ An.
Đại diện viện kiểm sát nhân dân huyện Qùy Châu, tỉnh Nghệ An tham gia phiên tòa: Bà Trần Hoàng Vân – Kiểm sát viên
Ngày 04 tháng 5 năm 2019 , tại trụ sở Tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu xét xử sơ thẩm công khai vụ án thụ lí số: 14/2018/TLST-DS ngày 06 tháng 12 năm 2018 về tranh chấp thanh toán hợp đồng dịch vụ theo quyết định đưa vụ án ra xét xử số: 11/2019/QĐXXST-DS ngày 10 tháng 4 năm 2019, giữa các đương sự:
- Nguyên đơn : Ông Vạn Văn Tiến. Sinh năm: 1972
Trú tại: Bản Húa Na, xã Chậu Hạnh, huyện Quỳ Châu , tỉnh NGhệ An
Có mặt
-Đồng bị đơn: -Ông Vi Văn Thắng. Sinh năm: 1972. Vắng mặt
                       - Bà Hà Thị Lương. Sinh năm: 1974. Vắng mặt
Cùng trú tại: Bản Tà Sỏi, xã Châu Hạnh, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An
Vắng mặt
-Người bảo vệ quyền lợi hợp pháp của bị đơn: Bà Nguyễn Thị Quỳnh Trang. Trợ  giúp viên pháp lý – chi nhánh số 2. Trung tâm trợ giup pháp lý nhà nước tỉnh Nghệ An. Có mặt
-Người làm chứng: 1. Ông Lữ Văn Ngọ. Sinh năm: 1978. Có mặt
                                2. Ông Vi văn Lưu. Sinh năm 1963. Có mặt
                                3. Ông Lữ Văn Hùng. Sinh năm: 1968. Có mặt
                                4. Ông Lang Văn Toán. Sinh năm: 1981. Có mặt
Đều trú tại: Bản Húa Na, xã Châu Hạnh, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An
                                5. Ông Hoàng Ngọc Chính. Sinh năm: 1982. Vắng mặt
Trú tại : Bản Chàng, xã Châu Thuận, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An

NỘI DUNG VỤ ÁN:
Theo đơn khởi kiện đề ngày 06 tháng 12 năm 2018, lời khai trong quá trình giải quyết vụ án, nguyên đơn là ông Vạn Văn Tiến trình bày: Ngày 18/02/2017, Ông Vạn Văn Tiến và Ông Vi Văn Thắng cùng nhau làm hợp đồng xây tầng 2 nhà bếp cho gia đình ông Thắng tại bản Tà Sỏi, xã Châu Hạnh, huyện Quỳ Châu, tỉnh Nghệ An với thời hạn 02 tháng kể từ ngày thi công. Đến ngày 01/03/2017, Ông Tiến cùng thợ đến tiến hành thi công thì phát hiện móng tầng 1 bị lệch nên không thể tiến hành xây dựng như nội dung trong hợp đồng. Vì vậy, giữa ông Tiến và gia đình ông Thắng đã thảo thuận đập bỏ tường bao tầng 1 và làm lại móng, xây dựng từ đầu. Quá trình xây dựng thì gia đình ông Thắng yêu cầu làm thêm ngoài hợp đồng, đó là ốp gạch toàn bộ tầng 1 và tầng 2 chứ không lăn sơn như tỏa thuận. Vì vậyđã kéo dài thời gian thi công hơn dự tính. Ngày 13/5/2017, khi ông Tiến và thợ đến để thi công thi ông Thắng và gia đình không cho ông Tiến làm tiếp nữa. Mặc dù sau đó thì ông Tiến đã nhiều lần liên hệ nhưng ông Thắng và gia đình không cho ông Tiến tiếp tục thi công hoàn thiện công trình. Quá trình thi công thì ông Tiến đã tạm ứng tiền công với số tiền 23.000.000 đ ( Hai mươi ba triệu đồng). Nay, ông Tiến khởi kiện yêu cầu ông Thắng và bà Lương phải thanh toán tiền công còn thiếu và lãi suất khỏan vay mà ông Tiến phải đi vay để trả tiền công thợ, tổng cộng với số tiền 74.032.000đ ( Bảy mưới tư triệu, không trăm ba mươi hai nghìn đồng).
Quá trình giải quyết vụ án, ông Tiến rút một phần yêu cầu khởi kiện. Đề nghị Tòa án buộc ông Thắng – bà Lương phải thanh toán tiền công còn thiếu sau khi đã trừ đi số tiền tạm ứng và chi phí phát sinh với số tiền là 39.098.000đ. Ông Tiến yêu cấu ông Thắng – bà Lương phải chịu tiền lãi của khoản nợ này từ tháng 6/2017 đến tháng 5/2019 với lãi suất 1,66%/ tháng với số tiền 14.927.000đ. Tổng cộng, ông Tiến yêu cầu buộc ông Thắng – bà Lương phải thanh toán số tiền là 54.025.000đ (Năm mươi triệu ,  không tră, hai mươi lăm nghìn đồng).
Đồng bị đơn là ông Vi Văn Thắng – bà Hà Thị Lương trình bày: Ông Thắng – bà Lương thừa nhận vào ngày 18/2/2017 có làm hợp đông thuê ông Tiến thi công ngôi nhà bếp 02 tầng trong thời gian 02 tháng kể từ ngày khởi công. Tuy nhiên, quá trình thi công kéo dài gây khó khăn cho gia đình ông Thắng sinh hoạt và công việc hàng ngày. Vì vậy, ngày 13/05/2017, gia đình ông Thắng đã không cho ông Tiến tiếp tục thi công công trình và đã thuê người hòa thiện ngôi nhà. Nay Ông Tiến khởi kiện yêu cầu thanh toán với số tiền 74.032.000đ thì ông Thắng – bà Lương không đồng ý. Ông Thắng – bà Lương chỉ chấp nhận thanh toán cho ông Tiến số tiền 20.583.000đ( Hai mươi triệu, năm trăm tám mươi ba nghìn đồng) sau khi trừ đi tiền công đã tạm ứng, tiền chi phí thuê người và tiền phạt do thực hiện chậm hợp đồng.
Người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan – chị Vi Thị Lê trình bày: Vào thời gian tháng 2/2017, giữa ông Vạn Văn Tiến với bố mẹ chị Lê ( Ông Vi Văn Thắng – bà Hà Thị Lương) có làm hợp đồng để xây dựng ngôi nhà bếp cho gia đình chị Lê với thời hạn 02 tháng. Quá trình thi công ông Tiến và nhóm thợ làm việc không đều đặn về mặt thời gian nên dẫn đến kéo dài thời gian thi công. Mặc dù chưa hoàn thiện công trình nhưng ông Tiến đòi bố mẹ chị Lê thanh toán tiền công nhưng ông Thắng -  bà Lương không đồng ý. Vì vậy, Ông Tiến cùng nhóm thợ đã ngừng thi công ngôi nhà. Thời gian này mặc dù sinh sống cùng bố mẹ nhưng do công việc nên chị Lê không tham gia vào việc xây dựng và hoàn thiện ngôi nhà. Vì vậy, chị Lê không có yêu cầu gì.
Người bảo vệ quyền , lợi ích hợp pháp của bị đơn trình bày: Ông Tiến thi công ngôi nhà của ông Thắng – bà Lương chưa hoàn thiện và không đúng hạn như đã thỏa thuận trong hợp đồng, một số hạng mục công trình gia đình ông Thắng phải thuê người khác hoàn thiện. Quá trình giải quyết vụ án thì ông Thắng đồng ý hiện đang nợ ông Tiến tiền công còn thiếu là 29.705.828đ. Tuy nhiên do ông Tiến vi phạm thời gian thi công đã thảo thuận nên đề nghị hội đồng xét xử khấu trừ đi của ông số tiền 6.000.000đ, chập nhận thanh toán cho ông Tiến số tiền 23.705.828đ (Hai mươi ba triệu, bảy trăm linh năm nghìn, tám trăm hai mươi tám đồng). Đề nghị Hội đồng xét xử không chấp nhận yêu cầu phạt lãi xuất của ông Tiến và buộc ông Tiến phi chịu tiền chi phí xem xét, thẩm định và định giá tài sản. Ngoài ra, đề nghị miền tiền án phí DSST cho ông Vi Văn Thắng và bà Hà Thị Lương.
Những người làm chứng – Ông Lữ Văn Ngọ, ông Vi Văn Lưu, ông Lữ Văn Hùng và ông Lang Văn Toán trình bày: Vào thời điểm từ tháng 3 đến tháng 5 năm 2017, ông Ngọ - ông Lưu – ông Hùng và ông Toán có tham gia cùng với ông Tiến thi công ngôi nhà 02 tầng của ông Thắng – bà Lương tại bản Tà sỏi, xã Châu Hạnh, huyệ Quỳ Châu. Quá trình thi công do gia đình Ông Thắng có yêu cầu thay đổi một số nội dung thi công không đúng như nội dung thảo thuận với ông Tiến, vì vậy dẫn đến kéo dài thời gian thi công. Vào một ngày trong tháng 5 năm 2017, khi ông Tiến cùng thợ đến để thi công hòan thiện công trình thì gia đình ông Thắng đã ngăn cản và không cho ông Tiến và thợ làm việc tiếp. Vi vậy, ông Ngọ - ông Lưu – ông Hùng và ông Toán không tiến hành thi công ngôi nhà của ông Thắng – bà Lương cùng với ông Tiến nữa. Ông Tiến đã thanh toán đầy đủ tiền công cho ông Ngọ -ông Lưu – oong Hùng và ông toán.
Người làm chứng Ông Hoàn Ngọc Chính trình bày: vào thời gian thang 11/2018, ông Chính được ông Thắng thuê hoàn thiện công trình ngôi nhà 02 tầng của gia đình Ông Thắng -  bà Lương tại bản Tà Sỏi, xã Châu Hạnh, huyện Quỳ Châu. Ông Chính đã thi công hoàn thiện một số hạng mục công trình bao gồm : ốp gạch phía bên mặt tiền tầng 1 lên mái, ốp gạch toàn bộ mặt tiền tầng 2, ốp gạch hai trụ tầng 2, làm đường chỉ mái tầng 1 và tầng 2, hoàn thiện bậc thềm tầng 1, đắp hai đấu tường tầng 1 lên mái, xây lan can tầng 2, nút lỗ sàn tầng 1 và tầng 2, sơn hoàn thiện cả nhà. Sau khi thi công hoàn thiện thì gia đình Ông Thắng – bà Lương đã thanh toán cho ông Chính số tiền là 11.500.000đ.
Quá trình giải quyết vụ án, ông Vạn Văn Tiến có đơn yêu cầu Tòa án tiến hành xem xét, thẩm định và định giá tài sản đối với ngôi nhà và giá trị tiền công xây dựng ngôi nhà hai tầng của gia đình ông Vi Văn Thắng – bà Hà Thị Lương. Tại Biên bản định giá tài sản lập vào hồi 09 giờ 15 phút ngày 22/02/2019 thể hiện : tổng chi phí tiền công để xây dựng ngôi nhà hai tầng như hiện trạng theo Biên bản xem xét, thẩm định tại chỗ lập vào hồi 08 giờ 05 phút được tính với tổng số tiền là 63.345.000đ. Chí phí tiền công hạng mục mà ông Thắng đã thuê người làm sau khi ông Tiến tạm ngừng thi công là 1.779.000đ.
Ý kiến của đại diện Viện kiểm sát tại phiên tòa : Trong quá trình giả quyết vụ án và tại phiên tòa hôm nay, Thẩm phán và Hội đồng xét xử đã thực hiện đúng và đầy đủ các quy định của Bộ luật tố tụng dân sự. Các đương sự đã chấp hành đúng các quy định của pháp luật. Đề nghị Hội đồng xét xử áp dụng các điều 513, 519, 520,421 và khoản 2 Điều 468 BLDS. Buộc ông Thắng và bà Lương phải có nghĩa vụ thanh toán cho ông Tiến số tiền công còn thiếu và gốc và lãi suất với tổng số tiền từ 30.000.000đ đến 35.000.000đ . Đề nghị buộc ông Thắng – bà Lương hoàn trả cho ông Tiến số tiền 6.000.000đ chi phí xem xét, thẩm định và định giá tài sản mà ông Tiến đã nộp. Buộc ông Tiến và ông Thắng – bà Lương phải chịu án phí DSST theo quy định.
 


NHẬN ĐỊNH CỦA TÒA ÁN
(1) Về thủ tục tố tụng:
(1.1) Về quan hệ pháp luật tranh chấp và thẩm quyền giải quyết vụ án: Hợp đồng xây dựng được lập giữa ông Vạn Văn Tiến và ông Vi Văn Thắng được lập vào ngày 18/02/2017 và các bên không thi công đúng như nội dung trong hợp đồng. Tuy nhiên , các bên thừa nhận có thỏa thuận thay đổi nội dung thi công và cùng đồng ý. Nội dung thỏa thuận không trái pháp luật, không trái đạo đức xã hội , phù hợp với quy định của pháp luật nên có giá trị thi hành đối với các bên. Từ đó có đủ căn cứ để xác định tranh chấp giữa ông Tiến và ông Thắng là “ Tranh chấp hợp đồng dịch vụ” , vụ án thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa án nhân dân huyện Quỳ Châu theo quy định tại khoản 3 Điều 24, điểm a khoản 1 Điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 BLTTDS và điều 513 BLDS.
(1.2) Quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa  hôm nay, ông Vạn Văn Tiến đã rút một phần yêu cầu khởi kiện. Căn cứ khoản 2 Điều 71 BLTTDS, cần chấp nhận yêu cầu này của ông Tiến.
(1.3) Về sự vắng mặt của đồng bị đơn –Ông Vi Văn Thắng , bà Hà Thị Lương và người có quyền lợi , nghĩa vụ liên quan – Chị Vi Thị Lê: Quá trình giải quyết vụ án đã có đầy đủ lời khai của ông Vi Văn Thắng và bà Hà Thị Lương. Trong giai đoạn chuẩn bị xét xử , bà Lương đã đi làm ăn xa, không có thông tin, đại chỉ cụ thể và hiện nay không liên lạc được. Tòa án đã tiến hành niêm yết Quyết định đưa vụ án ra xét xử và Giấy triệu tập phiên tòa theo quy định. Đây là lần thứ Tòa án triệu tập hợp lệ nhưng ông Thắng – bà Lương vẫn vắng mặt. Ngoài ra, chị Lê không có yêu cầu phân tố. Vì vậy, căn cứ vào điểm b khoản điều 227 và khoản 3 điều 228 BLTTDS, Tòa án tiến hành xét xử vắng mặt ông Vi Văn Thắng – bà Hà Thị Lương và chị Vi Thị Lê.
(2) Về nội dung:
(2.1) Quá trình giải quyết vụ án tại Tòa án, lời khai của các bên , biên bản hòa giải và diễm biến tại phiên tòa đã đủ cơ sở để kết luận: Ông Vi Văn Thắng – bà Hà Thị Lương đang nợ ông Vi Văn Tiến chi phí xây dựng ngôi nhà hai tầng của ông Thắng bà Lương. Theo hợp đồng lập ngày 18/02/2017 thì giá trị mỗi mét vuông xây dựng được tính là 1.200.000đ. Tuy nhiên , quá trình giải quyết vụ án , do các bên không thỏa thuận được về giá trị tiền công xây dựng của công trình nên cần căn cứ vào khoản 2 điều 519 BLDS, sử dụng Biên bản định giá tài sản lập vào hồi 09 giờ 15 phút ngày 22/02/2019 để tính tiền công xây dựng ngôi nhà hai tầng của ông THắng bà Lương . Quá trình thi công ngôi nhà, ông Tiến đã tạm ứng tiền công với số tiền 23.000.000đ, sau khi ông Tiến không thi công  tiếp thì ông Thắng – bà Lương đã thuê nhân công hoàn thiện với số tiền 1.779.000đ. Tại mục 20 và 21 của Bảng tổng hợp dự toán chi phí xây dựng lập ngày 22/02/2019 thể hiện việc lắp xà gỗ và lợp mái tôn vời tổng số tiền 942.000đ, đây là phần việc mà ông Tiến đã thừa nhận không tiến hành thi công , cần trừ vào tổng chi phí tiền công. Ông Tiến chấp nhận trừ chi phí tiền công mỗi m2 với số tiền 50.000đ tại các mục 7,14,19 và 30 theo Bảng tổng hợp dự toán chi phí xây dựng lập ngày 22/02/2019 với tổng số tiền ((12,76m2 + 15,15m2 + 3,1266m2 + 2,3712m2) × 50,000đ) = 1.670.390đ. Ngoài ra , do không thi công lát gạch nền tầng 1 nên ông Tiến chấp nhận trừ đi tiền công là (63.345.000đ – 23.000.000đ – 1.779.000đ – 942.000đ – 1.500.000đ) = 34.453.610đ. Vì vậy, chấp nhận yêu cầu của ông Vặn Văn Tiến , buộc ông Vi Văn Thắng và bà Hà Thị Lương phải trả lại số tiền công đang thiếu cho ông Tiến.
(2.2) Về yêu cầu phạt hợp đồng giảm tiền dịch vụ: Khi tiến hành thi công công trình theo hợp đồng theo hợp đồng lập ngày 18/02/2017 thì phát hiện tường và móng tầng 1 bị lệch nên không thể thi công như nội dung thỏa thuận trong hợp đồng . Nên ông Vạn Văn Tiến và gia đình ông Thắng thỏa thuận thi công lại từ móng tầng 1 và tường bao tầng 1. Ngoài ra, quá trình thi công, gia đình ông Vi Văn Thắng yêu cầu ông Vạn Văn Tiến ốp gạch thay vì lăn sơn như thỏa thuận trong hợp đồng. Sau khi thay đổi nội dung thi công thì các bên không tiến hành làm hợp đồng mới thay thế. Các nội dung thi công ngôi nhà của ông Thắng – bà Lương không đúng như trong hợp đồng lập ngày 18/02/2017. Do đó, hợp đồng lập ngày 18/02/2017 không có giá trị và vô hiệu theo quy định tại điều 408 BLDS. Vì vậy, cần bác yêu cầu của ông Vi Văn Thắng – bà Hà thị Lương và người bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp về việc phạt hợp đồng giảm tiền dịch vụ chi phí tiền công xây dựng.
(2.2) Về lãi xuất: Trong quá trình giải quyết vụ án và tại phiên tòa , ôngVạn Văn Tiến xác định thời điểm tính lãi xuất từ tháng 6/2017 đến tháng 5/2019 với lãi xuất là 1,66%/ tháng . Hội đồng xét xử xét thấy ông Vi Văn Thắng – bà Hà Thị Lương vi phạm nghĩa vụ thanh toán, nên ngoài nghĩa vụ phải trả số tiền công còn thiếu thì còn phải chịu lãi suất thoe quy định  và thời điểm tính lãi suất từ tháng 6/2017. Ông Vi văn Thắng – bà Hà Thị Lương không đồng ý với yêu cầu lãi suất của ông Vạn Văn Tiến . Vì vậy, cần căn cứ khoản 2 điều 468 BLDS, chấp nhận một phần yêu cầu của ông Tiến buộc ông Thắng – bà Lương phải chịu lãi suất với tỷ lệ 0,83%/ tháng đối với khoản nợ tiền công tính từ thời điểm tháng 6/2017 đến tháng 5/2019 với số tiền là (34.453.610đ × 0,83%/ tháng × 23 tháng) = 6.577.194đ
Tổng cộng, cần buộc ông Thắng phải thanh toán cho ông Tiến số tiền 41.030.804đ
(3) Về án phí, lệ phí:
(3.1) Án phí: cần buộc ông Vi Văn Thắng phải chịu án phí DSST thoe quy định của pháp luật. Buộc ông Vạn Văn Tiến phái chịu án phí DSST đối với phần yêu cầu không được chấp nhận.
(3.2) Lệ phí: Quá trình giả quyết vụ án, ông Vạn văn Tiến đã nạp tạm ứng chi phí đối với yêu cầu xem xét , thẩm định tại chỗ và định giá tài sản với số tiền 6.000.000đ. Quá trình giải quyết vụ án đã chi phí hết ( có bảng kê kèm theo hồ sơ vụ án ). Xét thấy, yêu cầu của ông Vạn Văn Tiến về việc buộc ông Vi Văn Thắng – bà Hà Thị Lương thanh toán hợp đồng dịch vụ được chấp nhận. Vì Vậy, căn cứ khoản 1 điều 158 và khoản 1 điều 162 BLTTDS cần buộc ông Vi Văn Thắng – bà Hà Thị Lương phải hoàn trả cho ông Vạn Văn Tiến số tiền 6.000.000đ.
Vì các lẽ trên.




   
QUYẾT ĐỊNH
Căn cứ khảon 3 điều 26, điểm a khoản 1 điều 35, điểm a khoản 1 điều 39 , khoản 2 điều 71, điều 147 , khoản 2 điều 227, khoản 3 điều 228, điều 271, điều 273 Bộ luật tố tụng dân sự;
Căn cứ khoản 2 điều 468, điều 513 , khoản 3 điều 518, khoản 2 điều 519 và khoản 1 điều 520 của bộ luật dân sự;
Nghị quyết số 320/2016/UBTVQH14 ngày 30/12/2016 của ủy ban thường vụ Quốc hội quy định về mức thu, miễn , giảm, thu nộp, quản lý và sử dụng án phí, lệ phí Tòa án.
1. Xử:
- Chấp nhận một phần yêu cầu khởi kiện của ông Vạn Văn Tiến . Buộc ông Vi Văn Thắng và bà Hà Thị Lương có nghĩa vụ thanh toán cho ông Tiến số tiền công còn thiếu và lãi suất với tổng số tiền là 41.030.804đ.
- Buộc ông Vi Văn Thắng và bà Hà Thị Lương phải hoàn trả cho ông Vạn Văn Thắng số tiền 6.000.000đ.
Kể từ ngày bản án có hiệu lực pháp luật ( đối với các trường hợp cơ quan thi hành án có quyền chủ động ra quyết định thi hành án) hoặc kể từ ngày có đơn yêu cầu thi hành án của người được thi hành án( đối với các khỏan tiền phải trả cho người thi hành án) cho đến khi thi hành án xong , tất cả các khoản tiền , hàng tháng bên phải thi hành án còn phải chịu khoản tiền lãi của số tiền còn phải thi hành án thoe mức lãi suất quy định tại khoản 2 điều 468 BLDS năm 2015.
Trường hợp bản án, quyết định được thi hành theo quy định tại điều 2 luật thi hành án dân sự thì người được thi hành án dân sự , người phải thi hành án dân sự có quyền thỏa thuận thi hành án, quyền yêu cầu thi hành án, quyền tự nguyện thi hành án, hoặc bị cưỡng chế thi hành án theo quy định tại điều 6 , điều 7 và điều 9 luật thi hành án dân sự; Thời hiệu thi hành án được thựuc hiện theo quy định tại điều 30 luật thi hành án dân sự.
2. về án phí :
- Buộc ông Vi Văn Thắng phải chịu 2.051.000đ
- Buộc ông Vạn Văn Tiến phải chịu 649.000đ tiền án phí DSST. Nhưng được khấu trừ vào số tiền 1.800.000đ tiền tạm ứng án phí nộp theo biên lai thu tiền số 0000824 ngày 06/12/2018 của chi cục thi hành án dân sự huyện Quỳ Châu , tỉnh Nghệ an. Trả lại cho ông Tiến số tiền 1.151.000đ.
3. Về quyền kháng cáo: ông Vạn Văn Tiến có quyền kháng cáo lên Tòa án nhân dân tỉnh Nghệ an trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày tuyên án. Ông Vi Văn Thắng, bà Hà Thị Lương và chị Vi Thị Lê có quyền kháng cáo lên toàn án nhân tỉnh Nghệ an trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được bản án hoặc niêm yết.