Pages

Đỗ Văn Hiếu: Làm giàu không khó… hay làm hoài không khá?

'Làm giàu liệu có dễ như mọi người nghĩ? Xin thưa, rất khó. Nhưng nếu kiên trì và có tài thì mọi thứ đều có thể đến', Doanh nhân Đỗ Văn Hiếu khẳng định và nhớ lại câu chuyện khởi nghiệp của mình...

Doanh nhân Đỗ Văn Hiếu: "Cho đi là nhận lại"

Từ một chàng sinh viên nghèo trở thành chủ doanh nghiệp ở tuổi còn rất trẻ. Giờ đây, doanh nhân Đỗ Văn Hiếu đảm nhiệm nhiều công việc ở những ngành nghề hoàn toàn khác nhau với nhiều chức danh quan trọng...

Đỗ Văn Hiếu - doanh nhân trẻ khát vọng dẫn đầu ngành BĐS Việt

24 giờ là quỹ thời gian quá ít ỏi để doanh nhân (DN) trẻ tuổi này giải quyết hết lượng công việc đồ sộ của hơn 6 công ty bất động sản (BĐS). Bận rộn là thế, nhưng DN Đỗ Văn Hiếu chưa bao giờ dám cho phép mình được ngơi nghỉ. Anh luôn đau đáu với những triết lý kinh doanh mới, mô hình hoạt động mới trong lĩnh vực kinh doanh BĐS, nhằm hướng tới nhiều giá trị mang tính bền vững và ổn định...

CEO Đỗ Văn Hiếu: Nếu thời cơ là 'vàng' thì con người là 'mỏ vàng'

Chia sẻ cùng chúng tôi doanh nhân Đỗ Văn Hiếu - Tổng Giám đốc Công ty CP An Cư Lạc Nghiệp – nhấn mạnh vào mấu chốt sự thành công trong đầu tư BĐS...

Trưởng phòng không lương.

Đánh liều xin việc vào các cơ quan với “cam kết làm việc không lương nếu không có hiệu quả” Hiếu nghĩ, “Khi tay trắng khởi nghiệp, một trong những cách làm giàu nhanh là kinh doanh trực tuyến, hoặc kinh doanh dịch vụ, như môi giới bất động sản, chứng khoán...”.

Thứ Năm, 29 tháng 5, 2025

CHUYÊN ĐỀ XÂY DỰNG BỘ VĂN HOÁ DỊCH VỤ CHO NGÀNH DỊCH VỤ CỦA TẬP ĐOÀN BCONS

Thực hiện: Nhà báo Đỗ Văn Hiếu – Phó Chủ tịch Hội đồng Cố vấn, Viện Nghiên cứu & Phát triển Doanh nghiệp

CHUYÊN ĐỀ XÂY DỰNG BỘ VĂN HOÁ DỊCH VỤ CHO NGÀNH DỊCH VỤ CỦA TẬP ĐOÀN BCONS

I. MỞ ĐẦU: VĂN HOÁ DỊCH VỤ – CHÌA KHÓA KHÁC BIỆT CỦA BCONS

Trong bối cảnh ngành bất động sản, xây dựng, quản lý – vận hành, môi giới và dịch vụ BĐS của Tập đoàn Bcons ngày càng phát triển, một bộ văn hoá dịch vụ chuẩn mực – nhân văn – có chiều sâu sẽ là vũ khí sắc bén giúp chúng ta tạo khác biệt và giữ chân khách hàng bằng trải nghiệm – chứ không chỉ là sản phẩm.

Khách hàng không nhớ bạn đã nói gì – mà nhớ bạn đã khiến họ cảm thấy thế nào.” – Maya Angelou

II. CẤU TRÚC BỘ VĂN HOÁ DỊCH VỤ BCONS

1. Lõi văn hoá: Niềm tin – Giá trị cốt lõi

- Tận tâm: Luôn phục vụ khách hàng như người thân

- Chủ động: Không đợi khách hàng yêu cầu – phải đón đầu

- Chính trực: Minh bạch thông tin – rõ ràng trách nhiệm

- Tinh tế: Thấu hiểu tâm lý – hành động khéo léo

- Hiệu quả: Làm việc có kết quả, không màu mè

2. Phần mềm văn hoá: Biểu tượng – Hành vi – Nghi lễ

a. Biểu tượng dịch vụ: Đồng phục, nhận diện thương hiệu, giao diện fanpage, tổng đài

b. Hành vi ứng xử:

- Với khách hàng: 5S dịch vụ: Sẵn sàng – Sâu sắc – Sạch sẽ – Sáng tạo – Sự hài lòng

- Với đồng nghiệp: Hợp tác, hỗ trợ, chia sẻ trách nhiệm

- Với cấp trên – cấp dưới: Tôn trọng – phản hồi văn minh

c. Nghi lễ văn hoá dịch vụ:

- Lễ kick-off chiến dịch

- Ghi nhận “Chiến binh dịch vụ”

- Thư cảm ơn khách hàng

3. Phần cứng: Hệ thống – Quy trình hỗ trợ văn hoá dịch vụ

- Quy trình phản hồi 30 phút

- Check-list dịch vụ 6 bước

- Chính sách khen thưởng

- Đào tạo hội nhập dịch vụ

III. TRIẾT LÝ DỊCH VỤ CỦA BCONS

“LẤY KHÁCH HÀNG LÀ TRUNG TÂM – LẤY TRÁCH NHIỆM LÀ GIÁ TRỊ”

- Khách hàng là người truyền cảm hứng

- Nhân viên dịch vụ là đại sứ thương hiệu

IV. KẾ HOẠCH TRIỂN KHAI

Gồm 5 giai đoạn: Khảo sát – Chuẩn hoá – Đào tạo – Truyền thông – Ghi nhận

V. KẾT LUẬN

Bạn có thể sao chép một sản phẩm, nhưng không thể sao chép một văn hoá.

Một nền văn hoá dịch vụ xuất sắc chính là lợi thế cạnh tranh bền vững nhất.

BCONS không chỉ tạo nên những toà nhà đẹp – mà còn phải tạo nên niềm tin và cảm xúc.

Hãy để dịch vụ trở thành trái tim của thương hiệu Bcons.

HƯỚNG DẪN TRIỂN KHAI BỘ VĂN HOÁ DỊCH VỤ

Áp dụng cho ngành dịch vụ tại Tập đoàn BCONS

I. MỤC TIÊU TRIỂN KHAI

- Chuẩn hóa hành vi ứng xử và thái độ phục vụ khách hàng.

- Nâng tầm trải nghiệm dịch vụ xuyên suốt các đơn vị thành viên Bcons.

- Tạo bản sắc riêng cho thương hiệu Bcons trên thị trường dịch vụ.

II. NỘI DUNG BỘ VĂN HOÁ DỊCH VỤ

Gồm 3 lớp cấu trúc:

1. Lõi văn hoá: Giá trị – Niềm tin – Triết lý dịch vụ.

2. Phần mềm: Hành vi – Nghi thức – Biểu tượng.

3. Phần cứng: Quy trình – Chính sách – Công cụ.

III. PHƯƠNG PHÁP TRIỂN KHAI

Gồm 5 bước tuần tự:

Bước 1: KHẢO SÁT THỰC TẾ

- Phỏng vấn nội bộ, khách hàng, ban lãnh đạo.

- Thu thập phản hồi về dịch vụ hiện tại.

Bước 2: THIẾT KẾ BỘ GIÁ TRỊ CỐT LÕI

- Đề xuất 5 giá trị đặc trưng: Tận tâm – Chủ động – Chính trực – Tinh tế – Hiệu quả.

- Tổ chức workshop phản biện và lựa chọn chính thức.

Bước 3: ĐÀO TẠO – TRUYỀN THÔNG

- Thiết kế video văn hoá dịch vụ.

- Tổ chức đào tạo theo từng cấp độ: lãnh đạo – quản lý – nhân viên.

Bước 4: ỨNG DỤNG THỰC TIỄN

- Áp dụng 5S dịch vụ: Sẵn sàng – Sâu sắc – Sạch sẽ – Sáng tạo – Sự hài lòng.

- Triển khai đồng phục, check-list, sổ tay giao tiếp chuẩn.

Bước 5: GHI NHẬN – DUY TRÌ

- KPI dịch vụ hàng tuần/tháng.

- Khen thưởng “chiến binh dịch vụ” theo quý.

- Đánh giá 360 độ văn hoá định kỳ mỗi 6 tháng.

IV. TỔ CHỨC TRIỂN KHAI TẠI BCONS

- Ban chỉ đạo: Khối nhân sự – thương hiệu – đào tạo.

- Từng đơn vị có đại sứ văn hoá dịch vụ.

- Định kỳ báo cáo kết quả về khối văn hoá tập đoàn.

V. KẾT LUẬN

Văn hoá dịch vụ không chỉ là quy định – mà là linh hồn của thương hiệu.

Triển khai bộ văn hoá dịch vụ chính là đầu tư bền vững vào niềm tin khách hàng.

Tác giả: Nhà báo Đỗ Văn Hiếu

Thứ Tư, 28 tháng 5, 2025

TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI VÀ ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP CỦA BÁO CHÍ KHI TUYÊN TRUYỀN CHÍNH SÁCH PHÁT TRIỂN KINH TẾ TƯ NHÂN



Tóm tắt: Nghị quyết 68-NQ/TW của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân là bước ngoặt quan trọng, khẳng định vai trò "động lực quan trọng nhất" của kinh tế tư nhân trong nền kinh tế quốc dân. Báo chí đóng vai trò then chốt trong việc truyền thông chính sách này đến cộng đồng doanh nghiệp và xã hội. Bài viết phân tích trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp của báo chí trong việc đảm bảo tính trung thực, khách quan, tránh "tô hồng" chính sách hay "bôi đen" doanh nghiệp, góp phần xây dựng niềm tin và tạo động lực phát triển kinh tế tư nhân bền vững.

I. ĐẶT VẤN ĐỀ

Ngày 4 tháng 5 năm 2025, Tổng Bí thư Tô Lâm thay mặt Bộ Chính trị đã ký Nghị quyết số 68-NQ/TW về phát triển kinh tế tư nhân. Đây không chỉ là một văn kiện chính sách mà còn là tuyên bố chính trị rõ ràng về tầm quan trọng chiến lược của kinh tế tư nhân trong giai đoạn phát triển mới của đất nước.

Lần đầu tiên, Bộ Chính trị xác định kinh tế tư nhân là "một động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia", đánh dấu sự thay đổi căn bản trong tư duy và nhận thức về vai trò của khu vực này. Hiện nay, khu vực kinh tế tư nhân đóng góp hơn 50% GDP, sử dụng tới 82% lực lượng lao động cả nước, đóng góp hơn 30% thu ngân sách quốc gia. Với Nghị quyết 68, khu vực này được kỳ vọng sẽ trở thành trụ cột chính của nền kinh tế Việt Nam.

Trong bối cảnh đó, báo chí với vai trò là lực lượng xung kích trên mặt trận thông tin, có trách nhiệm quan trọng trong việc truyền đạt chính sách này đến người dân và doanh nghiệp. Tuy nhiên, báo chí cần thực hiện đúng định hướng, tích cực tuyên truyền phổ biến đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước một cách trung thực và khách quan, tránh rơi vào hai cực đoan: "tô hồng" chính sách hoặc "bôi đen" doanh nghiệp.

II. NGHỊ QUYẾT 68-NQ/TW - BƯỚC NGOẶT LỊCH SỬ CHO KINH TẾ TƯ NHÂN

Những điểm đột phá của Nghị quyết 68

Nghị quyết 68 đã khẳng định rõ ràng vị trí của khu vực kinh tế tư nhân với những chính sách thực chất và mang tính cách mạng. Điểm đột phá đầu tiên chính là việc xóa bỏ những định kiến, nghi kỵ vốn tồn tại lâu nay về vai trò của kinh tế tư nhân.

Theo Nghị quyết, tầm nhìn đến năm 2030, Việt Nam phấn đấu có 2 triệu doanh nghiệp hoạt động trong nền kinh tế, 20 doanh nghiệp hoạt động/nghìn dân, với tốc độ tăng trưởng bình quân của kinh tế tư nhân đạt khoảng 10-12%/năm, đóng góp khoảng 55-58% GDP và 35-40% tổng thu ngân sách nhà nước.

Chính sách đột phá hỗ trợ kinh tế tư nhân

Nghị quyết 68 đề ra những chính sách đột phá trong việc hỗ trợ doanh nghiệp tư nhân tiếp cận các nguồn lực như vốn, đất đai, công nghệ, nhân lực và dữ liệu. Đặc biệt chú trọng đến việc phát triển các mô hình kinh tế mới, kinh doanh dựa trên công nghệ và nền tảng số.

III. TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA BÁO CHÍ TRONG TRUYỀN THÔNG CHÍNH SÁCH

Vai trò nòng cốt trong việc tạo đồng thuận xã hội

Truyền thông chính sách là một phần trong hoạt động của chính phủ nhằm đưa thông tin về chính sách đến người dân, thuyết phục họ thay đổi nhận thức và hành vi đúng pháp luật, là kênh để chính phủ lấy ý kiến nhân dân khi xây dựng chính sách mới, tạo ra sự đồng thuận xã hội.

Đối với Nghị quyết 68, báo chí có vai trò quan trọng trong việc:

Củng cố niềm tin của doanh nghiệp, doanh nhân vào môi trường đầu tư

Tạo động lực tinh thần cho khát vọng làm giàu chính đáng

Thúc đẩy xã hội nhìn nhận công bằng về vai trò của kinh tế tư nhân

Giúp bộ máy quản lý điều chỉnh chính sách thông qua phản ánh từ thực tiễn

Thách thức trong truyền thông chính sách kinh tế

Hoạt động truyền thông chính sách có vai trò quan trọng trong quá trình xây dựng và ban hành chính sách, nâng cao tính khả thi của văn bản quy phạm pháp luật, tạo đồng thuận xã hội đối với những chính sách cần được ban hành hoặc điều chỉnh theo yêu cầu của thực tiễn.

Truyền thông cần được bắt đầu từ khi nhận diện vấn đề chính sách chứ không phải chỉ đến khi chính sách đã được ban hành. Điều này đòi hỏi báo chí phải tham gia sâu vào quá trình hoạch định chính sách, không chỉ đơn thuần là kênh thông tin.

IV. ĐẠO ĐỨC NGHỀ NGHIỆP TRONG BÁO CHÍ KINH TẾ

Nguyên tắc đạo đức cơ bản

Theo 10 điều quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam, nhà báo phải "hành nghề trung thực, khách quan, công tâm, không vụ lợi. Bảo vệ công lý và lẽ phải. Không làm sai lệch, xuyên tạc, che giấu sự thật".

Đạo đức nghề nghiệp bao gồm các nguyên tắc xử sự đúng đắn để ngăn ngừa những hành vi không đúng đắn. Căn cứ vào những tiêu chuẩn đạo đức này, mỗi người sẽ phải điều chỉnh hành vi phù hợp với lợi ích và sự tiến bộ xã hội.

Thách thức đạo đức trong môi trường số

Trong bối cảnh sự ra đời của AI, sự nở rộ của các phương tiện truyền thông mới, người làm báo càng cần nhận diện rõ, biết cách đối mặt thách thức để giữ vững đạo đức nghề nghiệp.

Trong cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, một số nhà báo có thể bị ảnh hưởng bởi áp lực từ các lợi ích kinh tế, điều này có thể ảnh hưởng đến tính trung thực và khách quan của thông tin.

V. ĐỊNH HƯỚNG THỰC HIỆN

Đối với cơ quan báo chí

Để truyền thông chính sách hiệu quả, giữa nhà nước, cơ quan chức năng và báo chí cần "đồng thanh tương ứng". Báo chí cũng cần "đi trong và đi cùng" quá trình xây dựng chính sách để có thể hỗ trợ hiệu quả.

Các cơ quan báo chí cần:

Xây dựng đội ngũ phóng viên chuyên trách về kinh tế tư nhân

Thiết lập quy trình kiểm chứng thông tin nghiêm ngặt

Tạo các chuyên mục, chuyên trang về chính sách phát triển kinh tế tư nhân

Phối hợp chặt chẽ với các cơ quan quản lý để cập nhật thông tin chính xác

Đối với người làm báo

Đạo đức là cốt lõi, là nền tảng của báo chí. Nếu thiếu đạo đức, không chính trực, người làm báo sẽ dẫn dắt dư luận theo hướng tiêu cực.

Người làm báo phải quan tâm và khắc sâu giá trị cốt lõi của báo chí là tìm kiếm sự thật, nói lên sự thật, vì lợi ích của đất nước, của nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.

Mỗi nhà báo cần:

Thường xuyên học tập, cập nhật kiến thức về chính sách kinh tế

Đi sâu thực tế, tiếp xúc trực tiếp với doanh nghiệp

Kiểm chứng thông tin từ nhiều nguồn khác nhau

Giữ vững tính khách quan, không thiên vị

Đối với cơ quan quản lý

Quản lý không phải lúc nào cũng quá chi li mà quan trọng là phải tin cậy, tạo dư địa để báo chí phát huy trách nhiệm và sáng tạo.

Cần có:

Bộ quy tắc đạo đức nghề nghiệp riêng cho báo chí kinh tế

Chương trình tập huấn về nội dung Nghị quyết 68 và kỹ năng truyền thông chính sách

Mạng lưới nhà báo chuyên trách về kinh tế tư nhân, đổi mới sáng tạo

VI. KẾT LUẬN

Nghị quyết 68 đang mở ra một trang mới cho kinh tế tư nhân Việt Nam. Tuy nhiên, cần cả hệ thống chính trị, nhất là các cơ quan quản lý các cấp cùng đồng hành với doanh nghiệp.

Trách nhiệm xã hội và đạo đức nghề nghiệp của báo chí trong việc truyền thông Nghị quyết 68 không chỉ là nhiệm vụ chuyên môn mà còn là sứ mệnh lịch sử. Người làm báo cần thực hiện đúng phương châm "viết bằng tâm - viết bằng trí - và viết để phụng sự quốc gia".

Tài sản quý giá nhất của mỗi tòa soạn và các nhà báo chính là lòng tin của độc giả. Chỉ khi giữ vững đạo đức nghề nghiệp, báo chí mới có thể hoàn thành tốt vai trò kiến tạo niềm tin, mở đường cho Nghị quyết 68 đi vào cuộc sống, tiếp sức cho doanh nghiệp Việt vươn tầm quốc tế.

Thành công của Nghị quyết 68 không chỉ phụ thuộc vào các chính sách hỗ trợ mà còn cần sự đồng hành tích cực, trung thực và có trách nhiệm của báo chí - lực lượng nắm giữ chìa khóa tạo dựng niềm tin xã hội và định hướng dư luận tích cực.

Tài liệu tham khảo:

Nghị quyết 68-NQ/TW ngày 4/5/2025 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế tư nhân

10 điều quy định đạo đức nghề nghiệp người làm báo Việt Nam (2016)

Các nghiên cứu về truyền thông chính sách và đạo đức báo chí.

Tác giả: Nhà báo ĐỖ VĂN HIẾU

Phó Chủ tịch Hội đồng Cố vấn – Viện Nghiên cứu Khoa học Pháp lý và Phát triển Doanh nghiệp

Trưởng Văn phòng đại diện miền Đông Nam Bộ – Tạp chí Doanh nghiệp & Hội nhập

Thứ Hai, 26 tháng 5, 2025

CHUYÊN ĐỀ: VĂN HÓA – ĐỘNG LỰC, NỀN TẢNG PHÁT TRIỂN VÀ TẦM NHÌN CẤT CÁNH CỦA VIỆT NAM

 MỞ ĐẦU

Không có ngọn núi nào cao bằng khát vọng, và không có sức mạnh nào trường tồn hơn văn hóa. Trong mọi thời kỳ phát triển, từ những ngày đầu dựng nước cho đến hôm nay – khi đất nước đang bước vào kỷ nguyên số – văn hóa luôn là gốc rễ tinh thần, là động lực mềm và là ngọn lửa âm ỉ nhưng bền bỉ để hun đúc nên bản lĩnh dân tộc.

Từ Chủ tịch Hồ Chí Minh – người đã đặt nền móng lý luận: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi”, đến Tổng Bí thư Nguyễn Văn Linh với tinh thần “nói và làm”, đến hôm nay, dưới sự lãnh đạo của Tổng Bí thư Tô Lâm – Đảng ta tiếp tục khẳng định mạnh mẽ vai trò của văn hóa, con người, đổi mới sáng tạo và doanh nghiệp tư nhân như những trụ cột phát triển của một quốc gia độc lập, tự chủ và hội nhập.

PHẦN I. VĂN HÓA – NỀN TẢNG TINH THẦN VÀ SỨC MẠNH MỀM CỦA DÂN TỘC

Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng từng khẳng định: “Văn hóa còn thì dân tộc còn”. Đó không chỉ là câu nói đậm chất chính luận mà còn là lời cảnh báo sâu sắc. Nếu một đất nước chỉ phát triển về kinh tế mà thiếu nền tảng văn hóa – thì đó chỉ là sự lớn lên trong lạc lối.

Tư tưởng Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: Văn hóa là tổng hòa của mọi phương thức sinh hoạt, là thước đo trình độ phát triển xã hội. Văn hóa làm nên con người tử tế – doanh nghiệp có trách nhiệm – nhà nước vì dân.

Ngày nay, vai trò ấy được tiếp nối bằng tư duy rất mới: Văn hóa không chỉ là di sản, mà là tương lai. Văn hóa không nằm trong bảo tàng, mà sống trong từng hành vi, chính sách, công nghệ và cả thị trường.

PHẦN II. VĂN HÓA – ĐỘNG LỰC CHUYỂN HÓA XÃ HỘI VÀ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG

Trong Văn kiện Đại hội XIII, Đảng ta khẳng định: "Xây dựng, phát triển con người là quá trình tác động có chủ đích để phát triển toàn diện cả về trí tuệ, đạo đức, thể lực và năng lực thẩm mỹ.”

Chính vì vậy, văn hóa trở thành động lực – không phải bằng mệnh lệnh hành chính, mà bằng sự lan tỏa giá trị sống, giá trị đạo đức, và tinh thần sáng tạo.

Văn hóa là động lực vì:

Khơi dậy trí tuệ – để đổi mới, học tập, làm chủ tri thức.

Nuôi dưỡng đạo đức – để tạo nên môi trường xã hội lành mạnh.

Rèn luyện thể lực – để con người đủ sức khỏe đóng góp lâu dài.

Phát triển thẩm mỹ – để sống đẹp, nghĩ đẹp, lan tỏa cái đẹp.

Từ đó, văn hóa truyền cảm hứng – củng cố niềm tin – khơi dậy khát vọng.

PHẦN III. TẦM NHÌN CHUYÊN BIỆT CỦA ĐẢNG – DẤU ẤN TỔNG BÍ THƯ TÔ LÂM

Ngày 18/5/2025, Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu tại Hội nghị toàn quốc triển khai Nghị quyết 66 và 68. Ông gọi đây là “bộ tứ trụ cột” cho phát triển quốc gia: từ đổi mới sáng tạo (66), phát triển kinh tế tư nhân (68), hội nhập (57) đến trí tuệ số hóa (58).

Lần đầu tiên, Đảng ta khẳng định một cách đầy đủ và đột phá: Kinh tế tư nhân là động lực quan trọng nhất của nền kinh tế quốc dân.

Cùng lúc đó, đổi mới sáng tạo – khoa học công nghệ – chuyển đổi số quốc gia trở thành trục xương sống của phát triển lâu dài.

Nhưng đằng sau những nghị quyết ấy, linh hồn thật sự chính là tầm nhìn văn hóa: vì sao lại lựa chọn doanh nghiệp làm trung tâm? Vì sao phải chuyển đổi số? Vì sao lại nhấn mạnh “sự dũng cảm chính trị” trong văn kiện?

=> Bởi vì Đảng ta đã thực sự chuyển từ quản lý sang kiến tạo – từ bao cấp sang đồng hành – từ bảo thủ sang cải cách.

PHẦN IV. TỪ TƯ DUY ĐỔI MỚI ĐẾN HÀNH ĐỘNG CỤ THỂ – VĂN HÓA LÀ NỀN TẢNG CHUYỂN HÓA

Nhìn lại hành trình, từ Chủ tịch Hồ Chí Minh đến Nguyễn Văn Linh – và hôm nay là Tổng Bí thư Tô Lâm – ta thấy một mạch chảy tư duy:

Từ khẳng định giá trị văn hóa.

Đến thúc đẩy đổi mới toàn diện.

Và hôm nay: văn hóa trở thành lực đẩy phát triển quốc gia trong kỷ nguyên số.

Nhưng mọi nghị quyết sẽ vô nghĩa nếu không đi vào đời sống. Văn hóa không lan tỏa nếu không được sống, được vận hành trong từng doanh nghiệp, từng trường học, từng khu phố và từng nền tảng số.

 Văn hóa phải trở thành trí tuệ điều hành – đạo đức lãnh đạo – lương tâm quản lý – tinh thần phụng sự.

PHẦN V. KẾT LUẬN – CẤT CÁNH TỪ GỐC RỄ

Một dân tộc muốn đi xa phải có văn hóa dẫn đường. Một Đảng muốn bền vững phải có tư duy đổi mới, nhân văn và kiến tạo. Và một Tổng Bí thư dám đặt bút ký những nghị quyết như 66 và 68 – là một nhà tư tưởng hành động – là biểu tượng cho một thời kỳ mới.

Văn hóa không phải để tô vẽ cho xã hội. Văn hóa là gốc rễ để dựng người, dựng Đảng, dựng nước.

Và hôm nay, khi “bộ tứ trụ cột” đã sẵn sàng, Việt Nam đã có trong tay niềm tin – khát vọng – và cơ hội lớn để bứt phá.

Chúng ta chỉ cần một điều cuối cùng: Biến mọi giá trị văn hóa thành hành động cụ thể, vì một dân tộc không chỉ cường thịnh – mà còn cao đẹp và tử tế.

Nhà báo Đỗ Văn Hiếu – Học viên lớp TC240, Học viện Cán bộ TP.HCM

Xem những bài viết liên quan 

Động lực của văn hóa trong phát triển con người và xã hội hiện đại






Động lực của văn hóa trong phát triển con người và xã hội hiện đại

Động lực của văn hóa trong phát triển con người và xã hội hiện đại

Trong dòng chảy phát triển của mỗi quốc gia, có những yếu tố mang tính bền vững hơn cả vật chất, vượt lên trên cả những con số tăng trưởng. Đó chính là văn hóa – và trong đó, vai trò như một động lực nội sinh là một giá trị then chốt mà Đảng ta đã nhiều lần khẳng định.

Từ Văn kiện Đại hội XIII của Đảng Cộng sản Việt Nam, tư tưởng chỉ đạo đã được thể hiện rõ:

Xây dựng, phát triển con người là quá trình tác động có chủ đích của các chủ thể để tạo điều kiện và cơ hội cho con người phát triển toàn diện cả về trí tuệ, đạo đức, thể lực và năng lực thẩm mỹ.”

1. Động lực là gì trong tiến trình xã hội?

Theo định nghĩa lý luận trong slide học tập:

Động lực là những yếu tố, khả năng kích thích, thúc đẩy, làm tăng cường sự vận động của mọi quá trình xã hội.”

Nói cách khác, động lực chính là lực đẩy bên trong – khiến cá nhân, tổ chức, hay cả cộng đồng xã hội không ngừng vươn lên, phát triển và đổi mới. Trong hệ giá trị xã hội, văn hóa chính là động lực thầm lặng nhưng bền bỉ, hình thành nên ý chí, khát vọng và hành vi tích cực.

2. Văn hóa là động lực của phát triển con người toàn diện

Theo quan điểm của Đảng và thực tiễn xã hội, văn hóa đóng vai trò động lực phát triển thông qua 4 trụ cột cơ bản:

a) Trí tuệ – nền tảng cho sáng tạo và đổi mới

Văn hóa là chiếc nôi nuôi dưỡng tri thức, tư duy phản biện, khả năng sáng tạo – giúp con người không chỉ “biết làm việc” mà còn “biết vì sao phải làm và làm để làm gì”. Trong nền kinh tế số, nơi tri thức là tài sản lớn nhất, văn hóa trí tuệ chính là vốn quý của dân tộc.

b) Đạo đức – kim chỉ nam cho hành vi xã hội

Văn hóa tạo nên hệ giá trị đạo đức: trung thực, nghĩa tình, trách nhiệm, đoàn kết. Khi đạo đức được lan tỏa, các hiện tượng tiêu cực, vô cảm, vị kỷ sẽ bị đẩy lùi – từ đó thúc đẩy sự phát triển lành mạnh và bền vững.

c) Thể lực – năng lượng cho phát triển thực chất

Một xã hội có văn hóa là xã hội đề cao sức khỏe, thể thao, lối sống khoa học – giúp con người đủ sức khỏe thể chất để làm việc, cống hiến và hưởng thụ một cách hài hòa.

d) Năng lực thẩm mỹ – thúc đẩy sống đẹp, sống nhân văn

Năng lực thẩm mỹ không chỉ thể hiện ở nghệ thuật mà còn ở khả năng cảm nhận cái đẹp trong cuộc sống, trong tư duy và hành vi. Người có thẩm mỹ sẽ ứng xử đẹp, sáng tạo đẹp và lan tỏa cái đẹp.

3. Văn hóa là động lực cho sự phát triển xã hội tiến bộ

Không chỉ với từng cá nhân, văn hóa còn là chất keo cố kết cộng đồng, là nền móng ổn định xã hội, là ngọn lửa giữ lương tri dân tộc. Một xã hội có văn hóa sẽ:

Tạo ra môi trường lành mạnh để phát triển kinh tế.

Nuôi dưỡng ý chí độc lập, tự cường, khát vọng vươn lên.

Tạo sức mạnh mềm trong hội nhập quốc tế.

Khi văn hóa trở thành động lực, xã hội không còn phát triển chỉ để "có", mà còn để "là" – là con người tử tế, là quốc gia văn minh.

4. Liên hệ thực tiễn

Trong môi trường giáo dục, văn hóa học đường chính là động lực để học sinh hình thành nhân cách, phát triển trí tuệ.

Trong doanh nghiệp, văn hóa doanh nghiệp giúp gắn kết nhân viên, nâng cao hiệu suất làm việc, giữ chân nhân tài.

Trong cộng đồng, các giá trị văn hóa truyền thống như nghĩa tình, tương thân tương ái… chính là động lực giúp người dân đoàn kết vượt qua thiên tai, dịch bệnh, khó khăn kinh tế.

5. Kết luận

Văn hóa là ngọn gió thổi vào cánh buồm phát triển, là ánh sáng dẫn đường trong hành trình tiến bộ.

Khi được nhìn nhận đúng vai trò là nền tảng tinh thần – động lực phát triển – mục tiêu hướng tới, văn hóa sẽ không chỉ “giữ gìn” mà còn “thắp sáng” cả một tương lai bền vững.

 Văn hóa là cái còn lại khi mọi thứ khác đã thay đổi. Và khi đặt đúng vị trí – văn hóa chính là động lực để mọi thứ khác thay đổi theo hướng tốt đẹp hơn.

Tác giả: Nhà báo Đỗ Văn Hiếu – Học viên lớp TC240, Học viện Cán bộ TP.HCM

Xem những bài viết liên quan 

Động lực của văn hóa trong phát triển con người và xã hội hiện đại





Văn hóa – Nền tảng tinh thần của xã hội và động lực phát triển bền vững quốc gia

Văn hóa – Nền tảng tinh thần của xã hội và động lực phát triển bền vững quốc gia

Nếu một quốc gia là một cơ thể sống, thì văn hóa chính là tâm hồn. Nếu chính trị là bàn tay hành động, kinh tế là đôi chân vận động, thì văn hóa là trái tim giữ nhịp bền vững cho sự sống đó. Đó là lý do vì sao Đảng ta khẳng định dứt khoát: “Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu, động lực phát triển bền vững đất nước.”

1. Văn hóa – không chỉ là nền tảng tinh thần, mà là “phần hồn” của xã hội

Nói đến nền tảng tinh thần là nói đến cốt lõi tạo ra hệ giá trị, niềm tin, bản sắc, ứng xử, đạo đức và khát vọng sống của cả cộng đồng dân tộc. Văn hóa chính là thứ giữ lại con người trong mỗi bước phát triển – để phát triển không rơi vào tha hóa, hiện đại không rơi vào vô cảm, giàu có không đánh mất căn cước.

Bởi lẽ, một xã hội có thể sở hữu những tòa nhà chọc trời, nhưng nếu con người sống trong đó vô cảm, ích kỷ, thực dụng – thì đó không phải là phát triển, mà là lạc đường.

Văn hóa không tạo ra GDP – nhưng tạo ra ý nghĩa sống. Văn hóa không thể đo bằng tăng trưởng – nhưng lại đo được bằng sự nhân văn trong mỗi hành vi nhỏ nhất: cách ta nói một lời tử tế, cách ta nhường đường, cách một doanh nghiệp đối xử với nhân viên, hay cách một quốc gia đối xử với quá khứ và tương lai của mình.

2. Văn hóa – mục tiêu và động lực của sự phát triển bền vững

Văn hóa là mục tiêu, vì không có quốc gia nào phát triển thực sự nếu không mang lại đời sống tinh thần tốt đẹp cho người dân.

Văn hóa cũng là động lực, vì chính văn hóa mới là thứ thúc đẩy sáng tạo, truyền cảm hứng, xây dựng lòng tin – những yếu tố nền móng cho sự ổn định và phát triển lâu dài.

Trong một xã hội văn hóa, con người sẽ sống có trách nhiệm. Doanh nghiệp sẽ phát triển vì cộng đồng. Chính quyền sẽ hành động vì lợi ích nhân dân. Truyền thông sẽ phụng sự sự thật. Giáo dục sẽ không dừng lại ở điểm số, mà hướng tới nhân cách. Đó mới là phát triển thực chất, phát triển vì con người – chứ không phải trên lưng con người.

3. Tác động và ảnh hưởng của văn hóa trong xã hội hiện đại

Trong thời đại số, văn hóa không còn nằm yên trong bảo tàng hay trên sân khấu. Văn hóa sống trong từng dòng trạng thái trên mạng xã hội, từng câu chữ trong hợp đồng kinh doanh, từng lựa chọn hành động mỗi ngày của người dân.

Khi văn hóa tốt – xã hội sẽ lành mạnh, con người tử tế, quan hệ ứng xử hài hòa. Khi văn hóa xuống cấp – đạo đức băng hoại, niềm tin lung lay, và các thiết chế xã hội sẽ dần rạn nứt.

Hãy thử tưởng tượng: nếu mỗi công dân đều cư xử có văn hóa, mỗi doanh nghiệp đều có trách nhiệm xã hội, mỗi cán bộ đều có đạo đức công vụ – thì chúng ta đã tiến thêm bao nhiêu bước trên hành trình xây dựng một Việt Nam hùng cường?

4. Bình đẳng vai trò giữa văn hóa – kinh tế – chính trị

Một trong những quan điểm tiên tiến và rất căn bản của Đảng là: văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội. Bởi vì văn hóa không đi sau, không chạy song song, mà định hình và điều hướng các lĩnh vực còn lại.

Kinh tế mà thiếu văn hóa thì sẽ chỉ có “giàu có vật chất” mà không có “giàu có nhân phẩm”. Chính trị mà thiếu văn hóa thì dễ sa vào hình thức, xa dân, thiếu đạo lý. Xã hội mà thiếu văn hóa thì con người mất phương hướng, mất niềm tin và mất cả nhau.

5. Kết luận: Văn hóa là chiếc rễ giữ cho cây phát triển không bật gốc

Nếu một đất nước muốn vươn cao như một cây đại thụ, thì rễ phải sâu – đó là văn hóa. Văn hóa càng được bồi đắp – con người càng trưởng thành. Con người càng tử tế – xã hội càng bền vững.

Là một nhà báo và học viên lý luận chính trị, tôi tin rằng: xây dựng văn hóa không thể bằng lời kêu gọi, mà phải bắt đầu từ hành vi hằng ngày. Từ từng bài báo sạch, từng phát ngôn đúng mực, từng chương trình tử tế, từng chính sách nhân văn. Từng “hạt mầm văn hóa” hôm nay sẽ nở hoa thành tương lai đất nước.

Văn hóa không phải là thứ để trang trí. Nó là thứ để sống.”

Và nếu sống đúng với nó, chúng ta sẽ có một Việt Nam phát triển – không chỉ mạnh, mà còn cao quý và bền lâu.

Tác giả: Nhà báo Đỗ Văn Hiếu – Học viên lớp TC240, Học viện Cán bộ TP.HCM

Xem những bài viết liên quan 

Động lực của văn hóa trong phát triển con người và xã hội hiện đại





Câu hỏi: Biên nhận nợ viết tay có thể kiện ra tòa được không?

Câu hỏi: Biên nhận nợ viết tay có thể kiện ra tòa được không?

Trả lời: Có.

Theo quy định của pháp luật dân sự Việt Nam, biên nhận nợ viết tay hoàn toàn có thể được sử dụng làm chứng cứ khởi kiện tại tòa án, nếu đáp ứng một số điều kiện pháp lý sau:

1. Cơ sở pháp lý:

Bộ luật Dân sự 2015:

Điều 6: Quyền và nghĩa vụ xác lập, thực hiện, bảo vệ quyền dân sự thông qua Tòa án.

Điều 119: Giao dịch dân sự có thể được thể hiện bằng lời nói, bằng văn bản hoặc bằng hành vi cụ thể.

Điều 401: Hợp đồng vay tài sản không nhất thiết phải công chứng (trừ một số trường hợp đặc biệt).

Điều 466: Nghĩa vụ trả nợ.

Bộ luật Tố tụng Dân sự 2015:

Điều 91: Chứng cứ được trình bày bao gồm tài liệu viết tay, ghi âm, hình ảnh… nếu có giá trị chứng minh sự việc.

2. Giá trị pháp lý của biên nhận viết tay:

Biên nhận nợ viết tay được coi là chứng cứ hợp lệ nếu:

Có đầy đủ chữ ký hoặc điểm chỉ của bên vay.

Có nội dung rõ ràng: Số tiền vay, ngày vay, cam kết trả, thời hạn trả, lãi suất (nếu có), thông tin cá nhân cơ bản.

Có thể đối chiếu chữ viết, chữ ký, hoặc có nhân chứng hay bằng chứng bổ trợ (tin nhắn, chuyển khoản, ghi âm…).

3. Khi nào biên nhận viết tay không đủ điều kiện khởi kiện?

Nếu không xác định được ai là người lập, không có chữ ký/điểm chỉ xác nhận.

Nếu bị bên vay phủ nhận chữ ký và không có căn cứ chứng minh khác.

Nếu vượt quá thời hiệu khởi kiện: Theo Điều 429 Bộ luật Dân sự, thời hiệu yêu cầu trả nợ là 03 năm, tính từ ngày bên vay phải trả nợ nhưng không trả.

4. Lưu ý khi chuẩn bị hồ sơ khởi kiện:

Đính kèm bản gốc của biên nhận nợ.

Kèm theo CCCD, địa chỉ của người vay, chứng từ chuyển tiền (nếu có), đoạn ghi âm, tin nhắn (nếu cần).

Soạn đơn khởi kiện theo mẫu và nộp tại Tòa án nhân dân có thẩm quyền.

5. Lời khuyên chuyên môn:

Nếu biên nhận còn đủ điều kiện, nên tiến hành khởi kiện sớm để tránh mất quyền do hết thời hiệu.

Nên sao lưu các chứng cứ khác liên quan để hỗ trợ việc chứng minh quan hệ vay nợ.

Kết luận: Biên nhận nợ viết tay có thể kiện được, nếu đáp ứng các điều kiện cơ bản về hình thức, nội dung và chứng cứ kèm theo. Tuy nhiên, bạn nên tham vấn thêm luật sư để đảm bảo soạn đơn và thu thập chứng cứ đúng luật.

Nếu bạn cần, tôi có thể hỗ trợ mẫu Đơn khởi kiện đòi nợ dân sự kèm hướng dẫn chi tiết vui lòng liên hệ 

Viện Khoa học Pháp lý và Phát triển Doanh nghiệp (ILC)

📩 Email: dohieubaodoanhnghiep@gmail.com

📞 Hotline: 0932 074 939 (Nhà Báo, Luật gia Đỗ Văn Hiếu - Chuyên gia Kinh Doanh, Cố vấn Truyền thông, Phó Chủ tịch Hội đồng Cố vấn Viện ILC)

🔗 Website:https://www.ilcvn.vn/tong-quan/33

Thứ Sáu, 23 tháng 5, 2025

VĂN HÓA VIỆT NAM – GỐC RỄ PHỒN VINH, NGỌN LỬA TƯ DUY, VÀ BẢN ĐỒ HỒN DÂN TỘC

Có bao giờ bạn tự hỏi: Sau tất cả, điều gì còn lại khi một dân tộc đã bước qua những biến động của thời cuộc, đã băng qua những đỉnh cao kinh tế hay rơi vào vực sâu chiến tranh? Câu trả lời không nằm ở nhà máy, công trình, GDP hay những con số thống kê. Thứ còn lại – và chính là điều định hình tương lai – chính là Văn hóa.

1. Văn hóa là gì – nếu không phải là linh hồn sống của một dân tộc?

Văn hóa không phải là một khái niệm trừu tượng. Nó là hơi thở của đất nước. Là tinh thần sống còn của quốc gia. Nó nằm trong cách người mẹ dạy con giữ lễ nghĩa, trong ánh mắt của người già khi nghe một câu vọng cổ, trong hành động giản dị của người thanh niên cúi đầu chào tổ quốc qua nghi thức chào cờ. Văn hóa Việt không chỉ là áo dài, là trống hội làng hay lời ru dân gian – mà còn là bản lĩnh kiên cường, là sự lặng thầm hi sinh, là những "không khuất phục" trước thời gian và biến động.

Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nói: “Văn hóa soi đường cho quốc dân đi.” Ở đó, Người không chỉ nhấn mạnh vai trò chỉ dẫn của văn hóa, mà khẳng định: văn hóa là ánh sáng – ánh sáng của lý trí, của đạo đức, của khát vọng vươn lên.

2. Từ cái cuốc, cái áo đến đạo lý làm người – tất cả là văn hóa

Marx – Engels định nghĩa: Văn hóa là kết quả của lao động sáng tạo con người. 

UNESCO nhấn mạnh: Văn hóa bao gồm cả vật chất, tinh thần, xúc cảm, tri thức và phương thức sống. 

Với tôi – một nhà báo, một công dân, một người làm công tác lý luận – tôi thấy văn hóa trong từng nhịp sống, từng con chữ, từng quyết định đạo đức giữa vô vàn ngã rẽ đời người.

Văn hóa là khi bạn chọn trung thực thay vì giả tạo. Là khi bạn giữ một lời hứa dù chẳng ai nhắc nhở. Là khi bạn chào một người xa lạ bằng nụ cười. Đó không phải là tiểu tiết – mà là bản đồ định vị của một dân tộc.

3. Đảng ta: Văn hóa là gốc – là mục tiêu và động lực của phát triển

Từ Đề cương Văn hóa Việt Nam năm 1943, đến Nghị quyết 33-NQ/TW (2014) và đặc biệt là Văn kiện Đại hội XIII, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định: Văn hóa phải đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị và xã hội. Đây không chỉ là một nhận thức – mà là cuộc cách mạng tư duy.

Tổng Bí thư Tô Lâm gần đây cũng nhấn mạnh: “Phát triển văn hóa và xây dựng con người Việt Nam có đủ phẩm chất, năng lực là điều kiện tiên quyết để phát triển bền vững.” 

Đó là tầm nhìn chiến lược: Khi kinh tế là cơ bắp – thì văn hóa là trái tim. Khi kỹ thuật là công cụ – thì văn hóa là nhân cách điều hướng.

4. Hội nhập, công nghệ và văn hóa – cơ hội hay hố sâu?

Chúng ta đang sống giữa một thế giới siêu tốc – nơi dữ liệu di chuyển nhanh hơn lý trí, nơi giá trị sống có thể bị định nghĩa lại chỉ bởi một “trend”. 

Khi TikTok, Facebook, YouTube định hình tư duy của thế hệ trẻ, câu hỏi đặt ra là: Văn hóa Việt Nam có còn giữ được bản sắc?

Câu trả lời: Có – nhưng không tự nhiên mà có.

Chúng ta cần xây dựng lại một "phòng tuyến mềm" bằng giá trị cốt lõi. 

Cần "chuyển hóa" văn hóa dân tộc thành thứ vũ khí mềm mại nhưng bền bỉ để không bị đồng hóa giữa biển lớn hội nhập. 

Cần truyền lại cho thế hệ trẻ niềm tự hào về tiếng Việt, về Hát Xoan, về Quan họ, về áo bà ba, về ý chí bất khuất của dân tộc đã làm nên Điện Biên, thống nhất đất nước và đi lên từ tro tàn chiến tranh.

5. Văn hóa không chỉ để lưu giữ – mà phải được sống, được vận hành, được đổi mới

Xây dựng con người Việt Nam toàn diện là nhiệm vụ cấp thiết. 

Không thể chờ đợi người dân tự hình thành giá trị – khi xung quanh họ là sự xuống cấp đạo đức, là thực dụng, là nhiễu loạn thông tin.

Chúng ta cần một hệ giá trị được định hình rõ ràng, được dạy từ nhà trường, được thể hiện trong luật pháp, được lan tỏa bởi báo chí – và quan trọng nhất, được sống bằng gương mẫu từ người làm chính trị, cán bộ công quyền và từng người dân.

Hệ giá trị con người Việt Nam hôm nay cần nuôi dưỡng tám phẩm chất: Yêu nước – Đoàn kết – Tự cường – Nghĩa tình – Trung thực – Trách nhiệm – Kỷ cương – Sáng tạo.

6. Từ nhà báo – tôi đã sống cùng văn hóa, viết bằng văn hóa và tin vào văn hóa

Tôi không xem việc cầm bút là để kiếm sống – mà là để sống đúng. 

Tôi tin: mỗi bài viết, mỗi tấm ảnh, mỗi buổi trò chuyện với nhân dân, doanh nghiệp, cán bộ đều là một cơ hội để gieo lại hạt mầm văn hóa. Khi xã hội có thể bị nhiễu vì tin giả, vì ngôn từ kích động – thì một bài viết đúng, có giá trị sẽ là ngọn đèn nhỏ trong đêm. Làm báo – là lan tỏa văn hóa sống tử tế.

7. Tư duy lại về phát triển: Hãy bắt đầu từ gốc – từ con người và văn hóa

Chúng ta không thể xây nhà cao nếu móng yếu. Không thể thành cường quốc nếu con người còn thiếu tự trọng, thiếu lòng tin, thiếu ý thức cộng đồng. Hãy bắt đầu từ trường học – dạy trẻ yêu lao động, trân trọng lời hứa. 

Bắt đầu từ gia đình – nơi cha mẹ là tấm gương. Bắt đầu từ chính chúng ta – mỗi khi quyết định hành xử có văn hóa hay không.

8. Kết luận: Sống có văn hóa là sống cho mai sau

Tôi xin mượn lời của Edouard Herriot để kết thúc bài viết này: “Văn hóa là cái còn lại khi người ta đã quên tất cả, là cái vẫn thiếu khi người ta đã học tất cả.

Thời gian có thể xóa mờ nhiều thứ. Nhưng nếu còn giữ được nền văn hóa vững vàng, ta vẫn còn có thể bắt đầu lại – mạnh mẽ hơn, đẹp đẽ hơn, nhân văn hơn.

Tác giả: Nhà báo Đỗ Văn Hiếu – Học viên lớp TC240, Học viện Cán bộ TP.HCM

Xem những bài viết liên quan 

Động lực của văn hóa trong phát triển con người và xã hội hiện đại





Thứ Tư, 21 tháng 5, 2025

VĂN HÓA – HỒN CỐT DÂN TỘC VÀ SỨC MẠNH PHÁT TRIỂN TRONG KỶ NGUYÊN MỚI


VĂN HÓA – HỒN CỐT DÂN TỘC VÀ SỨC MẠNH PHÁT TRIỂN TRONG KỶ NGUYÊN MỚI

Bài viết Nhà báo Đỗ Văn Hiếu – Học Viên lớp TC 240 - Học viện Cán bộ TP.HCM

"Văn hóa soi đường cho quốc dân đi" – lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh từ gần một thế kỷ trước vẫn nguyên giá trị định hướng cho sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước hôm nay. 

Trong bối cảnh toàn cầu hóa, chuyển đổi số và hội nhập sâu rộng, việc nhận thức đúng và đầy đủ về văn hóa – đặc biệt là hệ giá trị văn hóa Việt Nam – không chỉ là yêu cầu lý luận, mà còn là mệnh lệnh thực tiễn.

Văn hóa dưới nhiều lăng kính: Từ triết học đến thực tiễn

Văn hóa là một khái niệm phong phú, đa chiều, được tiếp cận theo nhiều góc độ:

Theo nghĩa hẹp, văn hóa là những hoạt động nghệ thuật – văn học như âm nhạc, hội họa, sân khấu…

Theo nghĩa rộng, văn hóa là toàn bộ giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra, thể hiện trong lối sống, tập quán, tư duy và ứng xử xã hội.

Các học thuyết phương Tây nhấn mạnh vai trò lý tính, luật pháp và cá nhân; trong khi phương Đông coi trọng cộng đồng, đạo lý và sự hài hòa. Karl Marx và Friedrich Engels tiếp cận văn hóa từ quan điểm duy vật lịch sử, coi nó là sản phẩm của sự phát triển lực lượng sản xuất và quan hệ xã hội.


Quan niệm văn hóa của phương Tây và phương Đông – Góc nhìn từ sự “gieo trồng”

Trong dòng chảy tư tưởng nhân loại, phương Đông và phương Tây tuy khác biệt về hệ giá trị, nhưng đều gặp nhau ở một điểm chung cốt lõi: văn hóa là hành trình “gieo trồng” con người.

Tư tưởng phương Tây: “Cultus” – Văn hóa là sự trau dồi tâm hồn

Từ gốc Latin "cultus" nghĩa là gieo trồng, chia thành:

Cultus agri: trồng trọt đất đai – liên hệ đến nông nghiệp.

Cultus animi: trồng trọt tâm hồn – dẫn đến khái niệm culture (văn hóa).

Văn hóa, với người phương Tây, là quá trình tu dưỡng nội tâm, phát triển trí tuệ và tinh thần – giống như người nông dân gieo mầm hy vọng trong đất, thì giáo dục – nghệ thuật – tri thức cũng “gieo trồng” những giá trị nhân văn trong con người.

 Tư tưởng phương Đông: Văn hóa gắn với đạo lý, cái đẹp và sự hài hòa

Chữ "文化" (văn hóa) trong Hán ngữ có nghĩa là văn minh hóa con người bằng lễ – nghĩa – trí – tín. Phương Đông nhấn mạnh sự hài hòa giữa con người – cộng đồng – thiên nhiên, giữa vật chất và tinh thần, giữa “văn” và “đức”.

Chính vì thế, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đúc kết tư tưởng phương Đông bằng một câu nói bất hủ:

Vì lợi ích mười năm trồng cây – Vì lợi ích trăm năm trồng người”
Văn hóa, theo Bác, là một quá trình lâu dài, bền bỉ, tích lũy và lan tỏa – như trồng người bằng hành vi đạo đức, bằng giáo dục và bằng cách sống có trách nhiệm với cộng đồng.

Đặc biệt, UNESCO năm 1982 định nghĩa: "Văn hóa là tổng thể những đặc trưng tinh thần và vật chất, trí tuệ và cảm xúc đặc sắc của một xã hội..." – nhấn mạnh vai trò của văn hóa trong phát triển bền vững và tôn trọng đa dạng nhân loại.

Văn hóa theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đầu tiên hệ thống hóa khái niệm văn hóa một cách khoa học và sâu sắc. Bác viết:

Văn hóa là tổng hợp mọi phương thức sinh hoạt cùng với biểu hiện của nó mà loài người đã sản sinh ra nhằm thích ứng với nhu cầu đời sống và đòi hỏi sinh tồn.”

Bác cũng xác định rõ chức năng dẫn đường của văn hóa, khẳng định: "Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác ngoài con đường cách mạng vô sản. Muốn cách mạng thắng lợi, không thể thiếu văn hóa."

Kế thừa tư tưởng Hồ Chí Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định:

Văn hóa là nền tảng tinh thần của xã hội, là mục tiêu và động lực của sự phát triển kinh tế – xã hội.” (Nghị quyết TƯ 5 khóa VIII, Nghị quyết 33-NQ/TW, Nghị quyết 139/NQ-CP ngày 17/5/2025).

Đặc biệt, trong bài phát biểu quan trọng ngày 18/5/2025 tại Hội nghị quán triệt các nghị quyết 66 và 68, Tổng Bí thư Tô Lâm nhấn mạnh vai trò của văn hóa như “trụ cột phát triển bền vững” trong “bộ tứ nghị quyết” giúp Việt Nam cất cánh.

Hệ giá trị văn hóa Việt Nam – sức mạnh mềm của dân tộc

Văn hóa Việt Nam mang tính hệ thống, giá trị, lịch sử và nhân sinh. Đó là sự kết tinh của:

Đạo đức, lối sống: nhân ái, vị tha, nghĩa tình.

Nghi thức, ứng xử: trọng lễ nghĩa, hòa hiếu, nhân văn.

Truyền thống, phong tục: gắn với tổ tiên, cội nguồn dân tộc.

Tri thức, trình độ: phản ánh năng lực sáng tạo, tiếp thu và đổi mới.

Đặc trưng, bản sắc: thể hiện trong tà áo dài, tiếng Việt, lễ Tết, ca dao dân ca…

Áo dài, chẳng hạn, không chỉ là trang phục – mà là biểu tượng văn hóa, là linh hồn dân tộc. Nghĩ đến áo dài là nghĩ đến sự dịu dàng, bản lĩnh, kiêu hãnh mà sâu sắc của người phụ nữ Việt Nam.

Văn hóa là con đường của phát triển bền vững

Ngày nay, trong công cuộc chuyển đổi số, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập toàn diện, văn hóa càng đóng vai trò sống còn. Văn hóa điều tiết hành vi con người, tạo dựng niềm tin xã hội, nâng cao năng lực cạnh tranh mềm của quốc gia. Không có văn hóa dẫn đường, dễ rơi vào khủng hoảng giá trị và suy thoái đạo đức.

Do đó, nhiệm vụ cấp thiết là:

Phát triển con người Việt Nam toàn diện.

Xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh.

Hoàn thiện thể chế, chính sách phát triển văn hóa.

Đầu tư mạnh cho giáo dục, nghệ thuật, truyền thông nhân văn.

Lan tỏa hình mẫu con người Việt Nam hiện đại – hội nhập – bản lĩnh – nhân ái.

Văn hóa không nằm trên giấy, mà sống trong mỗi hành vi, lời nói, sản phẩm, quyết sách. Trong kỷ nguyên mới, càng cần phát huy văn hóa như ngọn lửa dẫn đường, như nền tảng để dựng xây một nước Việt hùng cường – nhân văn – bền vững.

Nếu coi kinh tế là thể lực, thì văn hóa chính là khí chất của một quốc gia”.

Hãy gìn giữ, làm giàu và lan tỏa khí chất Việt!


Quan niệm của Marx – Engels về văn hóa: Văn hóa là sản phẩm của lao động sáng tạo

Karl Marx và Friedrich Engels – hai nhà sáng lập chủ nghĩa duy vật lịch sử – không tiếp cận văn hóa một cách tách biệt, mà đặt nó trong mối quan hệ biện chứng với lao động, sản xuất và sự phát triển của lịch sử nhân loại.

 Văn hóa là sản phẩm của lao động sáng tạo

Marx và Engels khẳng định:

 “Văn hóa là toàn bộ những thành quả được tạo ra nhờ hoạt động lao động sáng tạo của con người.”

Văn hóa, vì vậy, không chỉ là những giá trị tinh thần như đạo đức, nghệ thuật, mà còn là hệ quả trực tiếp từ quá trình con người sử dụng trí tuệ, năng lực và bàn tay mình để cải biến tự nhiên và xã hội.

Đó là quá trình "gieo trồng cái đẹp", tức là biến những gì chưa hoàn thiện thành những giá trị nhân văn, phù hợp với quy luật của cái đẹp, cái tiến bộ.

Văn hóa là phương thức người tạo nên chính mình

Văn hóa không phải thứ gì đó “trừu tượng”, mà là cách con người thể hiện bản thân trong thế giới khách quan – từ việc ăn, mặc, ở, làm… đến tư duy, tổ chức xã hội. Đặc biệt, văn hóa còn bao gồm cả việc con người “cải tạo tự nhiên trong chính mình”, tức là tự hoàn thiện đạo đức, nhân cách, phẩm giá – một cách có ý thức và bền bỉ.

Văn hóa gắn với nền tảng sản xuất – là động lực phát triển xã hội

Marx – Engels kết luận:

Sản xuất vật chất là cơ sở, là yếu tố quyết định sự tồn tại, vận động và phát triển của xã hội, của lịch sử nhân loại.”
Tuy nhiên, họ cũng khẳng định vai trò văn hóa là nền tảng tinh thần, có tác động qua lại và ảnh hưởng trực tiếp đến sự vận động tiến bộ hay thoái hóa của xã hội.

Nói cách khác, văn hóa là thước đo mức độ văn minh, là động lực tinh thần của phát triển bền vững, là nền tảng để một dân tộc không chỉ sống sót – mà sống có phẩm giá, có bản lĩnh và có khát vọng vươn lên.

Quan niệm của Marx – Engels về văn hóa đặt con người vào vị trí trung tâm của tiến trình sáng tạo. Trong bối cảnh mới, Việt Nam cần vận dụng tư tưởng này để xây dựng nền văn hóa “khai phóng – nhân văn – hội nhập”, đưa văn hóa thực sự trở thành sức mạnh nội sinh và động lực phát triển đất nước trong kỷ nguyên số.

Chủ Nhật, 18 tháng 5, 2025

KHƠI NGUỒN TƯƠNG LAI TỪ TRƯỜNG HỌC – THẮP LỬA KHỞI NGHIỆP SÁNG TẠO

Ngày 17/05/2025, tại Hội trường E3.2 – Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM, một sự kiện khoa học đặc biệt đã diễn ra: Hội thảo "Mô hình triển khai Quỹ khởi nghiệp sáng tạo trong trường đại học, cao đẳng hỗ trợ học sinh, sinh viên, thanh niên khởi nghiệp"

Sự kiện không chỉ là diễn đàn học thuật mà còn là cú hích chiến lược mở ra chân trời mới cho thế hệ trẻ dấn thân vào con đường sáng tạo và khởi nghiệp.

Tham dự hội thảo có sự hiện diện của nhiều chuyên gia đầu ngành: Cục trưởng Cục Khởi nghiệp & Doanh nghiệp công nghệ, PGS.TS. Đàm Sao Mai – Phó Hiệu trưởng Đại học Công nghiệp TP.HCM, cùng đại diện các quỹ đầu tư, tổ chức khởi nghiệp như SIHUB, Techfest Việt Nam, CT Group, Viện Sở hữu trí tuệ, Trung tâm Khởi nghiệp ĐHQG-HCM… 

Sự góp mặt của những nhà điều hành và chuyên gia như vậy thể hiện tầm vóc và uy tín học thuật – thực tiễn của chương trình.

Từ giảng đường đến doanh nghiệp – không chỉ là lý tưởng, mà là một lộ trình cụ thể

Các mô hình quỹ đầu tư như Osage University Partners (OUP – Hoa Kỳ), Oxford Sciences Innovation (Anh), hay NUS Enterprise (Singapore) đã chứng minh rằng, trường đại học hoàn toàn có thể trở thành cái nôi cho những kỳ lân công nghệ tương lai. 

Bằng việc kết hợp nguồn vốn, chuyên gia cố vấn, cơ sở ươm tạo và mạng lưới đối tác, họ không chỉ đầu tư mà còn ươm mầm tương lai cho những ý tưởng táo bạo nhưng chưa thành hình.

Hội thảo lần này giới thiệu các mô hình triển khai phù hợp với thực tiễn Việt Nam, dựa trên tinh thần “dám nghĩ, dám làm, dám đột phá vì lợi ích chung” – như lời Thủ tướng Phạm Minh Chính nhấn mạnh trong Nghị quyết 57. Từ việc hình thành các quỹ đầu tư giai đoạn đầu (early-stage), quỹ nội bộ trường học, đến mô hình quản lý lai (hybrid) kết hợp chuyên gia bên ngoài, hệ sinh thái khởi nghiệp trong giáo dục dần được kiến tạo một cách bài bản.

Hãy tham gia cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo trong trường học

Là một người từng đi lên từ hành lang giảng đường, tôi – một nhà báo, nhà giáo và doanh nhân – hiểu rằng: mọi đế chế khởi nghiệp đều bắt đầu bằng một ý tưởng đơn giản được nuôi dưỡng đúng môi trường. Các bạn sinh viên, giảng viên, doanh nghiệp trẻ – hãy can đảm gieo hạt giống đầu tiên, vì giờ đây bạn không đơn độc. Bạn có cộng đồng, có nguồn lực, có chuyên gia, có Quỹ hỗ trợ trong trường!

Tham gia cộng đồng khởi nghiệp sáng tạo – bạn sẽ:

Được cố vấn bởi các chuyên gia đầu ngành, nhà đầu tư mạo hiểm;

Có cơ hội gọi vốn và thương mại hóa sản phẩm từ giảng đường;

Được kết nối mạng lưới doanh nhân, startup, quỹ đầu tư, các chương trình quốc gia và quốc tế;

Và hơn hết, bạn góp phần xây dựng một hệ sinh thái đổi mới – nơi giáo dục không chỉ dạy làm người, mà còn dạy làm chủ tương lai.

Tôi chân thành dành lời cảm ơn và trân trọng cho Ban tổ chức – Trường Đại học Công nghiệp TP.HCM và Cục Khởi nghiệp & Doanh nghiệp công nghệ – đã tổ chức một hội thảo chất lượng, thiết thực, đa chiều và tiên phong. Đây chính là nhịp cầu nối giữa học thuật và thương mại, giữa tri thức và thị trường, giữa giảng đường và hành trình lập nghiệp.

Đã đến lúc các trường đại học không chỉ là nơi trao bằng cấp, mà là nơi cấp “giấy khai sinh” cho những doanh nghiệp sáng tạo của tương lai. Tôi kêu gọi các bạn sinh viên, giảng viên, doanh nhân trẻ hãy gia nhập Cộng đồng khởi nghiệp trong trường đại học – để cùng nhau thay đổi hiện tại và kiến tạo tương lai.

Hoàng Gia 

Thứ Sáu, 16 tháng 5, 2025

Câu 2: Sự định hướng khách quan định hướng thị trường phát triển xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.

Sự tất yếu khách quan của kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam

Việt Nam, sau hơn 35 năm Đổi mới, đã đạt được những thành tựu kinh tế ấn tượng, khẳng định con đường phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa (KTTT ĐHXHCN) là một lựa chọn đúng đắn và tất yếu khách quan. 

Bài viết này đi sâu phân tích lý luận và thực tiễn để làm rõ sự tất yếu đó.

Lý luận: Nền tảng của sự tất yếu

Trước hết, cần khẳng định rằng, phát triển KTTT ĐHXHCN ở Việt Nam không phải là một sự áp đặt chủ quan, mà là sự vận dụng sáng tạo và phù hợp với các quy luật kinh tế khách quan.

 Như tài liệu đã chỉ rõ, không có một "mô hình kinh tế thị trường" chung chung, trừu tượng, mà kinh tế thị trường luôn mang tính lịch sử cụ thể, gắn liền với từng giai đoạn phát triển và hình thái kinh tế - xã hội nhất định. 

Ở Việt Nam, trong bối cảnh quá độ lên chủ nghĩa xã hội, kinh tế thị trường tồn tại trong sự chi phối của các quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa, phục vụ mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".

Thứ hai, sự phát triển của KTTT ĐHXHCN ở Việt Nam là phù hợp với trình độ phát triển của đất nước. Kinh tế thị trường, với những đặc trưng như thừa nhận tính độc lập của các chủ thể kinh tế, vận hành theo các quy luật khách quan (cung - cầu, cạnh tranh...), coi giá cả là tín hiệu điều tiết quan trọng, là một phương thức hiệu quả để huy động và phân bổ nguồn lực, thúc đẩy sản xuất, lưu thông hàng hóa, và phát triển lực lượng sản xuất. Đặc biệt, trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, kinh tế thị trường tạo ra động lực mạnh mẽ để nâng cao năng suất lao động, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, hội nhập kinh tế quốc tế.

Thứ ba, lựa chọn phát triển KTTT ở Việt Nam là một tất yếu để nắm bắt thời cơ, vượt qua thách thức. Kinh tế thị trường tạo ra môi trường cạnh tranh, buộc các doanh nghiệp phải không ngừng đổi mới, nâng cao năng lực cạnh tranh để tồn tại và phát triển. Đồng thời, nó mở ra cơ hội tiếp cận vốn, công nghệ, tri thức quản lý từ các nước phát triển, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế.

Thực tiễn: Minh chứng hùng hồn

Hơn 35 năm Đổi mới là minh chứng hùng hồn cho sự đúng đắn của lựa chọn phát triển KTTT ĐHXHCN.

 * Tăng trưởng kinh tế ấn tượng: Việt Nam duy trì được tốc độ tăng trưởng kinh tế cao và ổn định, thuộc nhóm các nước có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất khu vực và thế giới. GDP bình quân đầu người tăng liên tục, đưa Việt Nam từ một nước nghèo trở thành một nước có thu nhập trung bình.

 * Chuyển dịch cơ cấu kinh tế tích cực: Cơ cấu kinh tế chuyển dịch mạnh mẽ theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tỷ trọng nông nghiệp giảm mạnh, tỷ trọng công nghiệp và dịch vụ tăng nhanh. Nhiều ngành công nghiệp mới, công nghệ cao ra đời và phát triển.

 * Hội nhập kinh tế quốc tế sâu rộng: Việt Nam là thành viên tích cực của nhiều tổ chức kinh tế quốc tế (WTO, ASEAN...), ký kết nhiều hiệp định thương mại tự do (FTA) song phương và đa phương. Hoạt động ngoại thương tăng mạnh, Việt Nam trở thành một mắt xích quan trọng trong chuỗi giá trị toàn cầu.

 * Cải thiện đời sống nhân dân: Đời sống vật chất và tinh thần của người dân được cải thiện rõ rệt. Tỷ lệ nghèo đói giảm mạnh, thu nhập và mức sống của người dân tăng lên. Các dịch vụ y tế, giáo dục, văn hóa, xã hội phát triển, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người dân.

Kết luận

Phát triển KTTT ĐHXHCN không chỉ là một lựa chọn đúng đắn mà còn là một tất yếu khách quan của Việt Nam. 

Nó phù hợp với quy luật phát triển kinh tế, đáp ứng yêu cầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa, và tạo động lực mạnh mẽ cho sự phát triển của đất nước. Những thành tựu to lớn đã đạt được trong hơn 35 năm Đổi mới là minh chứng hùng hồn cho điều đó. 

Trong thời gian tới, Việt Nam cần tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước, và phát huy vai trò làm chủ của nhân dân để KTTT ĐHXHCN phát triển ngày càng hiệu quả và bền vững, vì mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh".


Thứ Ba, 13 tháng 5, 2025

Câu hỏi 2: Hiện nay, Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trên những lĩnh vực nào? Anh/chị vận dụng cụ thể vào một lĩnh vực, nêu ưu điểm, hạn chế, phương hướng, giải pháp cụ thể.


Câu hỏi 2: Hiện nay, Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trên những lĩnh vực nào? Anh/chị vận dụng cụ thể vào một lĩnh vực, nêu ưu điểm, hạn chế, phương hướng, giải pháp cụ thể.

Trả lời:

Hiện nay, Đảng ta vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh trên nhiều lĩnh vực như:

Xây dựng Đảng và hệ thống chính trị,

Phát triển kinh tế – xã hội gắn với công bằng,

Giáo dục, đào tạo, khoa học – công nghệ,

Đối ngoại, quốc phòng, an ninh,

Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.

Vận dụng cụ thể trong lĩnh vực: Truyền thông – Báo chí – Doanh nghiệp

Với vai trò là Nhà báo Đỗ Văn Hiếu – công tác tại Tạp chí Doanh nghiệp & Hội nhập, tôi vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh theo các hướng sau:

Ưu điểm:

Lấy dân làm gốc – phản ánh tiếng nói của doanh nghiệp, người lao động.

Tư tưởng “nói đi đôi với làm” – báo chí đi thực tiễn, đồng hành cùng doanh nghiệp vượt khó.

Nêu gương – lan tỏa tư tưởng đạo đức cách mạng trong sản xuất, kinh doanh.

Kết nối doanh nhân – trí thức – nhà quản lý để xây dựng hệ sinh thái khởi nghiệp đổi mới sáng tạo.

Hạn chế:

Một bộ phận báo chí chưa thật sự gần dân, gần doanh nghiệp.

Thiếu nhân sự chất lượng cao có tư duy lý luận và đạo đức Hồ Chí Minh đúng nghĩa.

Tình trạng giật tít, chạy theo lượng view, thiếu chiều sâu văn hóa.

Phương hướng – giải pháp:

Học tập và làm theo tư tưởng Hồ Chí Minh về báo chí: trung thực – trong sáng – phụng sự Tổ quốc và Nhân dân.

Đào tạo đội ngũ nhà báo – doanh nhân có bản lĩnh chính trị, văn hóa đạo đức.

Phát triển nền báo chí dữ liệu – báo chí số – báo chí nhân văn phục vụ công cuộc đổi mới.

Câu hỏi 1: Anh/chị trình bày tình hình Kinh tế – Chính trị – Văn hóa, xã hội – Quốc phòng, an ninh của nước ta trong thời gian qua.

Câu hỏi 1: Anh/chị trình bày tình hình Kinh tế – Chính trị – Văn hóa, xã hội – Quốc phòng, an ninh của nước ta trong thời gian qua.

Trả lời:

Trong thời gian qua, tình hình đất nước ta có nhiều chuyển biến tích cực và toàn diện:

Về kinh tế:

Việt Nam duy trì mức tăng trưởng GDP ổn định trong bối cảnh thế giới đầy biến động.

Là nền kinh tế đứng thứ 5 trong ASEAN và lọt top 40 nền kinh tế lớn nhất thế giới.

Xuất khẩu, thu hút FDI, chuyển đổi số, kinh tế xanh – số phát triển mạnh mẽ.

Doanh nghiệp tư nhân và khởi nghiệp đổi mới sáng tạo ngày càng đóng vai trò chủ lực.

Về chính trị – đối ngoại:

Đảng ta giữ vững vai trò lãnh đạo toàn diện, tuyệt đối.

Quan hệ đối ngoại ngày càng mở rộng: thiết lập quan hệ với 193 nước, là đối tác chiến lược toàn diện với các nước lớn.

Vai trò quốc tế nâng cao: thành viên Hội đồng Nhân quyền LHQ, chủ nhà SEA Games 31, đăng cai tổ chức nhiều hội nghị tầm khu vực và toàn cầu.

Về văn hóa – xã hội:

Chính sách an sinh xã hội, y tế, giáo dục, xóa đói giảm nghèo được chú trọng.

Chỉ số hạnh phúc, năng lực cạnh tranh, phát triển con người được cải thiện rõ nét.

Đặc biệt, Việt Nam trở thành quốc gia tiên phong trong đổi mới giáo dục và chuyển đổi số.

Về quốc phòng – an ninh:

Chủ quyền biển đảo, biên giới được giữ vững.

Chủ động phòng ngừa, đấu tranh hiệu quả với các âm mưu “diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ.

Bảo đảm an ninh mạng, an ninh kinh tế, an ninh con người trong bối cảnh mới.