Pages

Thứ Hai, 27 tháng 5, 2019

CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 VỀ ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG VÀ CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LUẬT HỌC SO SÁNH

CÁC QUY ĐỊNH CỦA BỘ LUẬT DÂN SỰ 2005 VỀ ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG VÀ CHẤP NHẬN ĐỀ NGHỊ GIAO KẾT HỢP ĐỒNG - NHÌN TỪ GÓC ĐỘ LUẬT HỌC SO SÁNH
TS. Dương Anh Sơn-Khoa Kinh tế, Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh

Đặt vấn đề: Thực tiễn ký kết hợp đồng trong hoạt động kinh doanh thương mại ở Việt Nam trong thời gian vừa qua cho thấy rằng, hợp đồng được ký kết chủ yếu theo thói quen mà không phải theo kỹ năng pháp lý. Cũng chính vì vậy mà những vấn đề liên quan đến giá trị pháp lý của đề nghị giao kết hợp đồng-chào hàng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng không mấy được quan tâm. Thực tiễn này ít nhiều tác động đến việc thiết kế các quy định liên quan trong pháp luật hợp đồng Việt Nam. Thưc vậy, trước thời điểm 1.1.2006 tồn tại đồng thời 3 văn bản pháp luật cùng điều chỉnh việc ký kết và thực hiện hợp đồng, đó là Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 1989, Bộ luật dân sự 1995 và Luật thương mại 1997, và điều đáng nói là có khá nhiều điểm không thống nhất trong ba văn bản này, tuy nhiên chúng ít được quan tâm nghiên cứu. Hiện nay các nhà làm luật của chúng ta đã có sự cố gắng trong việc thống nhất các quy định pháp luật về ký kết hợp đồng, cụ thể chúng được gom vào trong Bộ luật dân sự 2005. Điều này vừa đảm bảo được tính hệ thống, tính thống nhất của pháp luật, vừa phù hợp với thông lệ quốc tế. Sự cố gắng của những người soạn thảo Bộ luật dân sự thật đáng được ghi nhận. Tuy nhiên khi xem xét, nghiên cứu nhiều quy định của đạo luật quan trọng nói trên, tôi vẫn thấy còn nhiều vấn đề cần phải được làm sáng rõ hơn. Trong phạm vi của bài viết tôi này không có ý định phân tích tất cả các quy định liên quan đến đề nghị giao kết hợp đồng và chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng mà chỉ muốn phân tích, lý giải một số quy định trong mối liên hệ với thực tiễn và so sánh với các quy định của pháp luật một số nước.
2. Trước hết tôi muốn nói đến cách sử dụng thuật ngữ. Điều 390 Bộ luật dân sự 2005 quy định, i) đề nghị giao kết hợp đồng là việc thể hiện rõ ý định giao kết hợp đồng và chịu sự ràng buộc về đề nghị này của bên đề nghị đối với bên đã được xác định cụ thể; ii) trong trường hợp đề nghị giao kết hợp đồng có nêu rõ thời hạn trả lời, nếu bên đề nghị lại giao kết hợp đồng với người thứ ba trong thời hạn chờ bên được đề nghị trả lời thì phải bồi thường thiệt hại cho bên được đề nghị mà không được giao kết hợp đồng nếu có thiệt hại phát sinh. Như vậy pháp luật Việt Nam hiện hành không sử dụng thuật ngữ “chào hàng” như pháp luật của hầu hết các nước, Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Tôi cho rằng, việc pháp luật Việt Nam không sử dụng thuật ngữ “chào hàng” mà lại sử dụng thuật ngữ “đề nghị giao kết hợp đồng”sẽ gây rất nhiều khó khăn cho người áp dụng cũng như người ký kết hợp đồng vì rất khó có thể phân biệt đề nghị giao kết hợp đồng với quảng cáo và đặc biệt là với lời mời đưa ra đề nghị giao kết hợp đồng, bởi vì theo nguyên tắc, quảng cáo, lời mời chào hàng và bản thân chào hàng đều được coi là đề nghị giao kết hợp đồng, tuy nhiên trị pháp lý của chúng lại hoàn toàn khác nhau.
Khác với quảng cáo hay lời mời chào hàng, chào hàng có giá trị pháp lý ràng buộc. Một đề nghị giao kết hợp đồng, để được coi là chào hàng, phải thỏa mãn các dấu hiệu sau đây:
Thứ nhất, đề nghị đó phải được xác định cụ thể. Điều này có nghĩa là xuất phát từ nội dung của nó bên được chào hàng có khả năng hiểu được ý chí của bên chào hàng. Thông thương một đề nghị được coi là xác định nếu có chứa các nội dung của hợp đồng tương lai. Bất kỳ sự không xác định nào liên quan đến nội dung của hợp đồng tương lai, quyền và nghĩa vụ cũng như đối tượng của hợp đồng đều có thể dẫn đến các cách hiểu khác nhau về nội dung của đề nghị gia kết hợp đồng và điều này có thể làm cho đề nghị giao kết hợp đồng mất đi chức năng, mục đích của một chào hàng. Quảng cáo hay lời mời chào hàng thường là không xác định, bởi lẽ chúng không không có các  nội dung của một hợp đồng tương lai.
Thứ hai, đề nghị giao kết hợp đồng phải thể hiện được sự ràng buộc của bên chào hàng với lời đề nghị của mình trong trường hợp chào được bên được chào hàng chấp nhận. Yêu cầu nói trên có nghĩa là chào hàng phải được lập như thế nào đó để cho phép bên được đề nghị biết được rằng, để ký hết hợp đồng chỉ cần họ thể hiện sự đồng ý của mình với chào hàng. Dấu hiệu này cùng với dấu hiệu thứ nhất cho phép phân biệt chào hàng với lời mời để đối tác đưa ra chào hàng.
Thứ ba, chào hàng phải được gửi cho một người hay một số người cụ thể, tức là phải địa chỉ gửi đến phải được xác định rõ ràng. Lời mời chào hàng mặc dù được gửi cho một hay một số người xác định, tuy nhiên nó không thể hiện được sự ràng buộc của bên đưa ra đề nghị. Quảng cáo thường không được gửi cho một người xác định nào mà nó chỉ có mục đích thông báo, giới thiệu cho tất cả những người quan tâm về một loại sản phẩm nào đó của người đưa ra quảng cáo.
Từ sự phân tích nói trên, tôi cho rằng, pháp luật Việt Nam nên sử dụng thuật ngữ “chào hàng” và khoản 1 Điều 390 Bộ luật dân sự cần phải được sửa đổi như sau: Đề nghị giao kết hợp đồng được gửi cho một hay một số người xác định được coi là chào hàng nếu đề nghị đó được xác định và thể hiện được ý định của người chào hàng chịu sự ràng buộc trong trường hợp đề nghị được chấp nhận. Chào hàng phải có các điều khoản chủ yếu của hợp đồng.
3. Vấn đề tiếp theo chúng tôi muốn nói đến là giá trị pháp lý của một đề nghị giao kết hợp đồng được coi là chào hàng. Lý thuyết về ký kết hợp đồng chỉ ra rằng, có hai loại chào hàng: thứ nhất, chào hàng có quy định thời hạn trả lời và; thứ hai, chào hàng không quy định thời hạn trả lời. Khi xem xét khoản 1 Điều 390 Bộ luật dân sự 2005 có thể nhận thấy pháp luật Việt Nam có quy định chào hàng không quy định thời hạn trả lời, tuy nhiên giá trị pháp lý của nó lại không được nói đến . Thực vậy, điểm a, khoản 1 Điều 392 Bộ luật dân sự quy định rằng, bên đề nghị giao kết hợp đồng có thể thay đổi, rút lại đề nghị giao kết hợp đồng nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc thay đổi hoặc rút lại đề nghị trước hoặc cùng với thời điểm nhận được đề nghị. Theo tôi thì điểm a khoản 1 Điều 392 chỉ quy định giá trị pháp lý của chào hàng có quy định thời hạn trả lời. Bởi vì quy định này có thể hiểu là trong khoảng thời gian từ thời điểm bên được đề nghị nhận được đề nghị đến khi kết thúc thời hạn trong đề nghị, bên đề nghị không được rút lại hay hủy đề nghị của mình. Mặt khác sẽ hết sức vô lý nếu quy định trên được áp dụng cho cả đề nghị giao kết hợp đồng không quy định thời hạn trả lời bởi vì không quy đinh khoảng thời gian hiệu lực của nó. Vậy thì đối với chào hàng không quy định thời hạn trả lời bên đề nghị có thể rút lại hoăc hủy lời đề nghị của mình khi nào? Hay nói cách khác là bên được đề nghị giao kết hợp đồng phải trả lời trong thời hạn nào thì trả lời đó mới được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng.
Khác với pháp luật Việt Nam, pháp luật của nhiều nước, kể cả Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế không những chỉ có sự điều chỉnh đối với đề nghị giao kết hợp đồng được coi là chào hàng có quy định thời hạn trả lời mà còn có sự điều chỉnh đối với chào hàng không quy định thời hạn trả lời. Công ước Viên 1980 (khoản 1 Điều 16) quy định, bên đề nghị có thể rút lại đề nghị nếu bên được đề nghị nhận được thông báo về việc rút lại chào hàng trước khi trả lời chấp nhận. Điều 145 Bộ luật dân sự của Đức quy định, trong trường hợp chào hàng không quy định thời hạn trả lời thì bên chào hàng chịu sự ràng buộc trong thời hạn hợp lý  , tức là trong thời hạn hợp lý đó bên chào hàng không được thay đổi hay hủy lời đề nghị của mình. Điều này có nghĩa là nếu bên được đề nghị đưa ra sự chấp nhận trong thời hạn hợp lý đó thì hợp đồng sẽ được ký kết. Khoản 1 Điều 441 Bộ luật dân sự Liên bang Nga quy định rằng, khi chào hàng bằng văn bản không quy định thời hạn trả lời, hợp đồng được coi là đã ký kết nếu bên chào hàng nhận được sự trả lời chấp nhận của bên kia trước thời hạn do pháp luật quy định, nếu pháp luật không quy định thì trong thời hạn hợp lý cần thiết cho việc chấp nhận. Thời hạn hợp lý được quy định trong pháp luật của Đức, Liên bang nga trong từng trường hợp cụ thể phụ thuộc vào nhiều yếu tố: khoảng cách giữa các bên, phương tiện thông tin, tính chất của hợp đồng tương lai…Theo nguyên tắc, thời hạn hợp lý này được xác định bởi khoảng thời gian giữa ngày bên được đề nghị nhận được chào hàng và ngày bên đề nghị nhận được trả lời chấp nhận.
Từ những gì được nói ở trên, tôi nghĩ rằng, trong Bộ luật dân sự Việt Nam nên chăng cũng cần phải có quy định cụ thể hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng không có quy định thời hạn trả lời.
4. Một trong những vấn đề liên quan đến việc ký kết hợp đồng cần phải được quan tâm đó là sự im lặng có được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng hay không. Theo quy định của Công ước Viên 1980 (Khoản 1 Điều 18), sự im lặng hay việc không hành động không được coi là chấp nhận chào hàng. Trong pháp luật của các nước khác nhau vấn đề này được giải quyết không giống nhau. Pháp luật Việt Nam, về mặt nguyên tắc cũng không coi im lặng là sự chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên khoản 2 Điều 404 Bộ luật dân sự 2005 quy định rằng, hợp đồng cũng được xem như được giao kết khi hết thời hạn trả lời mà bên nhận đề nghị vẫn im lặng, nếu có thỏa thuận im lặng là sự trả lời chấp nhận giao kết. Liên quan đến quy định này, một câu hỏi có thể được đặt ra: trong trường hợp hợp đồng được ký kết bằng cách trao đổi chào hàng và chấp nhận chào hàng giữa các bên vắng mặt thì sự thỏa thuận nói trên được hiểu như thế nào? Khi việc đàm phán thương thảo ký kết hợp đồng được thực hiện giữa những người vắng mặt thì rõ ràng họ khó có thể thỏa thuận được. Hay là có thể nói rằng, trong chào hàng, bên đề nghị có quy định rằng, sự im lặng của bên được đề nghị được coi là sự đồng ý của họ. Tôi cho rằng, nếu hiểu như vậy lại càng không được. Hợp đồng là sự thỏa thuận của các bên nhưng trong trường hợp này hoàn toàn không có sự thỏa thuận mà là sự áp đặt ý chí của bên đề nghị. Nếu cho rằng, trong các cuộc gặp gỡ trước đó các bên đã có sự thỏa thuận với nhau rằng, im lặng được coi là chấp nhận chào hàng, cách lập luận này có vẻ thuyết phục hơn cả. Tuy nhiên tôi cho rằng, trường hợp này nên coi là thực tiễn thương mại giữa các bên có vẽ hợp lý hơn. Điều này  được ghi nhận trong pháp luật của một số nước. Ví dụ, Điều 438 Bộ luật dân sự Liên bang Nga quy định rằng, im lặng không được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng nếu điều này không xuất phát từ pháp luật, tập quán hay thực tiễn quan hệ giữa các bên. Pháp luật của Anh cũng có cách tiếp cận tương tự như Bộ luật dân sự Liên bang Nga . Tôi cho rằng quy định như vậy sẽ phù hợp hơn, bởi thực tiễn quan hệ giữa các bên, đặc biệt là quan hệ thương mại giữa các bên trong nhiều trường hợp cũng được sử dụng như là một cơ sở pháp lý để giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng. Đây cũng là xu thế mà pháp luật quốc tế thừa nhận.
5. Theo nguyên tắc, một trong những điều kiện để sự trả lời của bên được đề nghị được coi là chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng là bên đề nghị nhận được chấp đề nghị trong thời hạn hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng. Tuy nhiên trong thực tiễn có nhiều trường hợp mặc dù bên được đề nghị gửi chấp nhận sớm và theo điều kiện thương mại thông thường nó phải đến tay người đề nghị sớm, tức là trong thời hạn hiệu lực của đề nghị giao kết hợp đồng, tuy nhiên vì lý do khách quan chấp nhận đến trễ. Hiệu lực pháp luật của chấp nhận đến trễ này được quy định giống nhau trong Pháp luật Việt Nam, Công ước Viên 1980, pháp luật của một số nước  tức là vẫn có giá trị pháp lý như một chấp nhận chào hàng nếu bên đề nghị không phản đối ngay khi nhận được chấp nhận đề nghị giao kết hợp đồng đó. Tôi cho rằng, quy định này của Bộ luật dân sự Việt Nam, của pháp luật các nước và cả Công ước Viên 1980 nghiêng về việc bảo vệ được quyền lợi của bên đề nghị và không bảo vệ được lợi ích của bên được đề nghị. Rõ ràng như vậy, ví dụ, khi người bán nhận được sự chấp nhận trễ của người mua, nếu còn hàng thì người bán sẽ coi chấp nhận đó có hiệu lực, nếu hàng đã bán rồi thì họ sẽ trả lời ngay không đồng ý với chấp nhận đó. Trong trường hợp này rất có thể người mua sẽ phải chịu thiệt hại liên quan đến sự chuẩn bị cho việc thực hiện hợp đồng bởi họ tin rằng, hợp đồng đã được ký kết vì sự trả lời của họ đến đúng hạn. Như vậy thiệt hại này của người mua-người được đề sẽ được giải quyết như thế nào? Theo quy định của khoản 1 Điều 397 Bộ luật dân sự thì người mua phải gánh chịu thiệt hại đó. Điều này có vẻ không công bằng với người mua, bởi vì họ phải chịu sự thiệt hại hoàn toàn không do lỗi của họ. Theo quan điểm của tôi, để giải quyết trường hợp này nên chăng chúng ta có cách tiếp cận khác, tức là phải làm thế nào đó để bên được đề không bị thiệt hại. Ví dụ, pháp luật có thể quy định rằng, khi hết thời hạn được quy định trong đề nghị giao kết hợp đồng mà bên đề nghị không nhận được sự trả lời thì phải thông báo ngay cho bên kia biết về điều đó. Có thể coi đây là sự thể hiện một cách rõ ràng nhất của nguyên tắc thiện chí khi ký kết hợp đồng, mặt khác, so với bên được đề nghị thì người đề nghị chính là người quan tâm hơn đến việc thành công của giao dịch.
6. Điều 398 Bộ luật dân sự quy định, trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi bên được mời giao kết hợp đồng trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị. Điều này có nghĩa là hợp đồng đã được ký kết. Cũng tương tự, Điều 399 quy định, trong trường hợp bên được mời giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng vẫn có giá trị. Và điều này cũng có nghĩa là hợp đồng đã được ký kết. Đây là hai quy định rất mới của Bộ luật dân sự 2005, chúng không có trong Bộ luật dân sự 1995, cũng như trong Luật thương mại 1997, và trong pháp luật của nhiều nước các quy định nói trên không được tìm thấy.
Trước hết tôi muốn bình luận Điều 398. Đề nghị giao kết hợp đồng có giá trị pháp lý có nghĩa là nếu nó được chấp nhận thì hợp đồng được ký kết. Tôi cho rằng quy định của Điều 398 cũng có thể hiểu là đối với đề nghị giao kết hợp đồng có quy định thời hạn trả lời thì nó vẫn có giá trị pháp lý ngay cả khi bên đề nghị chết hay mất năng lực hành vi dân sự trong trong thời hạn đó. Để xem xét tính phù hợp của quy định này chúng ta có thể xem xét một ví dụ sau đây: Ông A là kiến trúc sư danh tiếng. Ông ta gửi cho công ty B một đề nghị giao kết hợp đồng, theo đó ông A sẽ thiết kế cho công ty B một công trình kiến trúc tầm cỡ. Nhận được lời đề nghị của ông A, công ty B xem xét và chấp nhận lời đề nghị đó. Sau khi nhận được sự trả lời chấp nhận của công ty B, ông A chết. Trong trường hợp này, theo quy định tại Điều 398 Bộ luật dân sự thì lời đề nghị của ông A vẫn có giá trị ràng buộc, điều này cũng có nghĩa là hợp đồng giữa ông A với công ty B đã được ký kết và có hiệu lực và nếu ông A chết thì người thừa kế- người thế nghĩa vụ - của ông A phải thực hiện hợp đồng nói trên. Tuy nhiên trong trường hợp cụ thể nói trên chỉ ông A là người mới có thể thực hiện được nghĩa vụ hợp đồng chứ không phải là một người nào khác bởi vì người thừa kế của ông A không phải là kiến trúc sư, mà cho dù là kiến trúc sư đi nữa thì cũng không thể thực hiện được nghĩa vụ thiết kế theo hợp đồng. Mặt khác điều này lại mâu thuẫn với khoản 3 Điều 424 Bộ luật dân sự, theo đó, hợp đồng chấm dứt trong trường hợp cá nhân giao kết hợp đồng chết, pháp nhân hoặc các chủ thể khác chấm dứt mà hợp đồng phải do chính cá nhân, pháp nhân hoặc các chủ thể đó thực hiện. Như vậy, bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi bên được mời giao kết hợp đồng trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì đề nghị giao kết hợp đồng vẫn có giá trị theo quy định tại Điều 398 và ngay lập tức bị chấm dứt hiệu lực theo quy định của khoản 3 Điều 424 Bộ luật dân sự. Hậu quả pháp lý của Điều 399 cũng tương tự trong trường hợp công ty B là bên đề nghị và ông A-kiến trúc sư là bên được đề nghị.
Cũng có thể các nhà làm luật cho rằng, trong trường hợp khi bên đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi bên được mời giao kết hợp đồng trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng nếu việc thực hiện hợp đồng sau này phải do chính người đó hoặc trong trường hợp bên được mời giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự sau khi trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng thì việc trả lời chấp nhận giao kết hợp đồng nếu việc thực hiện hợp đồng sau này phải do chính người đó thì không áp dụng quy định của hai Điều 398 và 399 mà áp dụng quy định tại khoản 3 Điều 424. Còn quy định tại hai Điều 398 và 399 chỉ được áp dụng cho  những trường hợp khác ngoài trường hợp nói trên, tức là khi hợp đồng không do chính người đề nghị hay người được đề nghị thực hiện. Cách lập luận này (nếu có) tôi thấy cũng không thuyết phục. Trong trường hợp bên đề nghị giao kết hợp đồng hoặc bên được đề nghị giao kết hợp đồng chết hoặc mất năng lực hành vi dân sự mà hợp đồng có thể do người thừa kế- người thế nghĩa vụ thực hiện thì ngay cả khi không có quy định của Điều 398 và Điều 399 thì người thừa kế - người thế nghĩa vụ vẫn phải thực hiện nghĩa vụ hợp đồng của họ. Bộ luật dân sự không có quy định trực tiếp vấn đề này mà nó được quy định trong một số văn bản văn bản pháp luật khác. Ví dụ, pháp nhân – doanh nghiệp chấm dứt sự tồn tại của mình bằng việc sáp nhập, hợp nhất hay chia, tách. Trong trường hợp pháp nhân sáp nhập vào một pháp nhân khác thì nghĩa vụ của pháp nhân được sáp nhập sẽ được pháp nhân sáp nhập thực hiện.
Từ những lập luận nói trên, tôi cho rằng, quy định tại các Điều 398 và 399 Bộ luật dân sự 2005 thực sự là không cần thiết, không cần thiết vì không những nó thừa mà còn mâu thuẫn với một quy định khác của Bộ luật dân sự-khoản 3 Điều 424 và sẽ gây rất nhiều khó khăn cho việc áp dụng, vì vậy có lẽ tốt nhất là nên loại chúng ra khỏi Bộ luật dân sự 2005.
Trên đây là một số ý kiến của tôi về một số quy định của Bộ luật dân sự 2005 liên quan đến việc ký kết hợp đồng. Tôi cho rằng, Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới, quan hệ thương mại với đối tác nước ngoài của doanh nghiệp Việt Nam ngày càng tăng lên, vì vậy một trong những nhiệm vụ của chúng ta là phải làm thế nào để pháp luật hợp đồng nói chung, các quy định về ký kết hợp đồng nói riêng phải có sự tương thích với pháp luật quốc tế. Có như vậy mới tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam trong việc ký hết và thực hiện các loại hợp đồng thương mại quốc tế.