Pages

Thứ Bảy, 11 tháng 1, 2020

Giới thiệu khái quát về Dòng Họ Đỗ (Đậu) Việt Nam,lịch sử dòng họ Đỗ Việt Nam

I. Khái quát về lịch sử dòng họ Đỗ Việt Nam

          Cách đây hơn 10 năm họ Đỗ chưa ai biết được cội nguồn của dòng tộc mình  như bây giờ. Nhờ hồng phúc Tổ tiên, chúng ta ngày càng có thêm hiểu biết về dòng họ từ ngày khai thiên lập địa hơn năm ngàn năm trước đến ngày hôm nay. Từ ngàn xưa, những con dân của dòng Họ Đỗ cũng như các dòng họ khác vẫn khao khát tìm nhau bằng một tình cảm dòng tộc lặn sâu trong huyết quản.  Dần dần, sự phát triển của văn hóa dòng họ đã đem đến cho mỗi người sự hiểu biết về Tổ tiên, về bà con Họ Đỗ ở các vùng miền.
Sự hiểu biết ấy đã giúp cho tình cảm dòng họ ngày càng sâu sắc, sự liên kết những người con của dòng họ ngày càng rộng rãi.
          Người đầu tiên đặt nền móng văn hóa cho sự hiểu biết về dòng họ Đỗ, sự liên kết sâu rộng của những con người trong họ Đỗ Việt Nam là giáo sư Đỗ Tòng - người con ưu tú của Họ Đỗ đã tận tâm sưu tầm và nghiên cứu, tìm hiểu về Họ Đỗ ở tầm khoa học. Giáo sư đã đi ngược lại lịch sử để tìm ra tông tích của Họ Đỗ từ ngày có người Việt cổ. 


          Theo các tài liệu, các thông tin chi tiết đầy đủ về gia phả Họ Đỗ Việt nam với các công trình nghiên cứu khoa học đồ sộ của hơn 400 dòng Họ Đỗ trong nước và 28 dòng Họ Đỗ ở nước ngoài đã khẳng định người Họ Đỗ lâu đời nhất ở Việt Nam hiện tìm thấy là cụ Long Đỗ tên thật là Đỗ Khanh, hiệu là Phúc Lộc cụ sinh năm 4630 TCN. Mất ngày 25/9/4535 TCN thọ 95 tuổi. Cụ Long Đỗ là Hoàng Tử thứ 15 của Đế Thích Bát Hải Đại Vương, là cháu nội của cụ Đế Thiên Phục Hy Thiên Không Giáo Chủ.   Cụ được cha đặt tên là Long Đỗ, sau gọi là Đỗ Long, về sau còn được gọi là Thần Bạch Mã, một trong tứ trấn Thăng Long thành. Hiện nay mộ của cụ ở tại số 3 ngõ Gạch, đền Bạch Mã -Hoàn Kiếm - Hà Nội.
Các con và các cháu của cụ sau này đặt tên bao giờ cũng có chữ ''Đỗ'' đứng đầu và từ đó, họ Đỗ đã ra đời cách đây hơn 5 nghìn năm.

Đến đền Bạch Mã. hồn tôi như trải quyện về mấy nghìn năm trước để lắng nghe từ thâm trầm vũ trụ lời vọng thiêng liêng dòng tộc. Trong dòng chảy khôn cùng của tạo hoá, từ thăm thẳm của lòng đất, Cụ đã chọn nơi đây để giao hoà, ngự trị vĩnh hằng. Thật kỳ diệu thay! Cách đây không xa phía hừng đông lộng toả, là nơi an lạc của con cháu Cụ - cụ bà Đỗ Thị Đoan Trang và tám cụ ông - tám vị Bát Bộ Kim Cương như tám cây cột đá giúp Lộc Tục Kinh Dương vương khai sáng vũ trụ. Hẳn là đức độ cao cả của các cụ đã tạo dựng đài huyền thoại vĩnh hằng. Trong những điều biết được thì được biết về dòng họ mình là niềm tự hào kiêu hãnh lớn lao nhất. Toàn thể dòng họ Đỗ Tại thôn Duyên Mĩ, xã Yên Cường xin chân thành cảm ơn giáo sư Đỗ Tòng người đã được suy tôn danh dự là Trưởng Đỗ tộc Việt Nam. Bằng đức độ, tài năng khơi dòng nguồn cội, Cụ đã tạc vào vũ trụ bức chân dung lộng lẫy - họ Đỗ Việt Nam. Đối với những người con họ Đỗ, công đức ấy là một đặc ân thánh thiện. Nguyện cầu Cụ khoẻ mạnh, sống lâu. Cầu chúc cho dòng họ Đỗ Việt Nam trường tồn lan toả, xứng đáng với linh ký tổ tiên.

          Dưới đây là truyền thuyết về cụ Long Đỗ

Chúng ta thường nghe nói vị thần thành hoàng đất Long Đỗ (Thăng Long) trong truyền thuyết dân gian Việt Nam. Long Đỗ có nghĩa là "rốn rồng", chính là Núi Nùng ở Hà Nội.  Khi xưa, Cao Biền đời nhà Đường được cử sang cai trị Giao Châu (nước ta hồi đó là xứ Giao Châu) cho đắp thành Đại La. Một hôm, Biền đang vẩn vơ dạo ngoài cửa đông thành, bỗng thấy mưa to gió lớn, rồi một đám mây ngũ sắc bốc lên từ mặt đất, tụ lại ở trên không, tia sáng bốc lên chói mắt, khí trời trở nên lạnh lẽo. Giữa đám mây, thấy hiện ra một người "đầu đội mão xích hoa, thân mặc áo tử hà, xiêm là, giày đỏ, bay lượn ở trong mây mù, hương lạ thơm lừng, đàn sáo hợp tấu, lững lờ uyển chuyển, lúc thấp lúc cao, lâu ước độ hai khắc rồi bỗng nhiên tan mất. Cao Biền kinh dị, cho là yêu quái. Đêm hôm ấy, Biền mộng thấy người gặp lúc ban ngày, đến bảo rằng: "Ta là Long Đỗ vương khí quân, thấy ông mở rộng kinh thành thì đến xem chơi, chớ có ngờ". Biền tỉnh dậy than: "Ta không biết làm chính trị nên quỷ thần vượt mặt ta, sự này là điềm lành hay điểm gở?". Rồi Cao Biền dựng đền, đắp tượng thờ rồi lấy một nghìn cân sắt, đồng làm bùa trấn yểm. Khi Biền làm lễ trấn yểm, bỗng một trận cuồng phong nổi lên quật đổ cây to, tung đất, làm tất cả đồng sắt trấn yếm đều biến thành tro bụi. Một vầng sáng chói trên không trung, tiếp theo là tiếng cười sang sảng như tiếng chuông đồng. Biền lạnh hết sống lưng nhưng cũng ngước mắt lên nhìn - vẫn là người hôm trước. Người đó quắc mắt nhìn Cao Biền: “Ông không trấn yểm được đâu”. Biền bủn rủn chân tay và nghĩ thầm: "Ta phải về Bắc thôi, nơi này linh thiêng quá!". Sau quả nhiên khi Cao Biền trở về nước ốm mà chết. Vị thần không cho Cao Biền trấn yểm thành Đại La  chính là thần Long Đỗ.
          Sinh thời cụ Long Đỗ là tể tướng của hai đời Vua. Cụ đã rất giỏi về nông nghiệp. Cụ đã đi khắp nơi dạy dân trồng lúa nước, trồng cây đậu và chế biến sản phẩm lúa gạo và đậu phụ. Cụ luôn được Vua Cha là Bát Hải Đại Vương giúp cho mưa thuận gió hoà vì thế đời sống xã hội thời đó rất thịnh vượng (Theo sự tích cây đậu). Về sau dân gian truyền tụng và gọi cụ là: "Thần Long Đỗ". Được nhà Vua phong thần: "Đỗ Phủ Thành Hoàng Thần Quân". Đến đời vua Lý Thái Tổ phong là: "Quốc Đô Định Bang Thành Hoàng Đại Vương". Thời nhà Trần Vua Trần Thánh Tông phong là: "Bảo Quốc Định Bang Đại Vương".

Đời thứ hai là cụ Long Quy. Đời thứ ba là cụ Long Ngao. Đời thứ tư là cụ ĐỗThương.

Cụ Đỗ Thương là tể tướng của hai đời Vua là: Sở Minh Công (Đế Thừa ) và Đế Minh (Nguyễn Minh Khiết) cụ bà thứ 9 của cụ Đỗ Thương có tên là Vụ Tiên. Cụ Tiên đã sinh ra cụ bà Đỗ Quý Thị và 8 người em trai (trong dân vẫn gọi là Bát Bộ Kim Cương).

Cụ Đỗ Quý Thị có tên thật là Đỗ Đoan Trang sinh ngày 8/4/4307 TCN mất ngày rằm tháng 7 năm 4212TCN hưởng thọ 95 tuổi hiện nay mộ của cụ còn ở tại Ba La -Hà Đông- Hà Nội. Cụ được đời sau phong là Hương Vân Cái Bồ Tát và Sa Bồ Giáo Chủ. Hiện nay cụ còn được tôn vinh là Đệ Nhất Tiên Thiên Thánh Mẫu.

Cụ Đỗ Quý Thị sinh ra Nguyễn Lộc Tục. Lộc Tục được 8 người cậu ruột phò trợ về sau đã nối nghiệp cha lập ra nước Xích Quỷ và xưng là Kinh Dương Vương từ đây bắt đầu của triều đại Hùng Vương thứ nhất của trang vàng lịch sử Việt Nam.

          Tám người em trai của cụ Đỗ Thị Đoan Trang là: Đỗ Xương, Đỗ Tiêu, Đỗ Kỷ, Đỗ Cương, Đỗ Chương, Đỗ Dũng, Đỗ Bích, Đỗ Trọng.  Tám vị mà Lộc Tục gọi là cậu sau đều trở thành các vị "Kim Cương", thường được gọi là Bát Bộ Kim Cương và mang Phật hiệu, gồm:

1- Cụ Đỗ Xương, hiệu Thanh Trừ Tai Kim Cương;
2- Cụ Đỗ Tiêu, hiệu là Tịch Độc Thận Kim Cương;
3- Cụ Đỗ Kỷ, hiệu là Hoàn Tuỳ Cầu Kim Cương;
4- Cụ Đỗ Cương, hiệu là Bạch Tịnh Thuỷ Kim Cương;
5- Cụ Đỗ Chương, hiệu là Xích Thanh Hoả Kim Cương;
6- Cụ Đỗ Dũng, hiệu là Định Trừ Tai Kim Cương;
7- Cụ Đỗ Bích, hiệu là Tử Hiền Thần Kim Cương;
8- Cụ Đỗ Trọng, hiệu là Đại Thần Lục Kim Cương.
Bia con cóc - Mộ của 8 vị này ở gò Thiềm Thừ   (con cóc tía) ở vùng Ba La, cách mộ cụ bà Đỗ Quý thị mấy trăm mét đường chim bay. Trước đây gò này còn hai bia đá, trụ vuông, trên đỉnh trụ bia có con cóc ôm quả địa cầu, tượng trưng là "Cậu Ông Trời" (Ngọc Hoàng Thượng Đế). Bốn mặt bia đề bốn câu chữ Hán.

                       - Phương phần bảo vật

                       - Vạn cổ nghiễm nhiên

                      - Chi hạng lưu hương

                     - Thiên thu thường tại.

Năm 1789 La Sơn Phu Tử Nguyễn Thiếp dịch như sau:

                 - Lối cũ dấu thơm

                 - Nghìn xưa vẫn đó

                 - Cây to báu vật

                 - Muôn thuở còn đây .

           Hiện nay trên đất nước Việt Nam hơn 400 dòng họ Đỗ. Có nghĩa là hơn 5 nghìn năm qua, cây cổ thụ đã vươn cành xanh lá. Từ một cành của một cây cổ thụ, Ông tổ khảo họ Đỗ ngự tại nhà thờ  thôn Duyên Mĩ xã Yên Cường đã đến đây khai sinh, lập nghiệp. Cho đến thời điểm này (năm 2010) con cháu họ Đỗ tại thôn Duyên Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định đã có tới đời thứ mười một.

II. Khái quát về dòng họ Đỗ tại thôn Duyên Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.

          Dọc theo đường 56 về phía nam, cách thị trấn Gôi chừng 4 km, đến xã Yên Cường -  một vùng đất nổi tiếng một thời oanh liệt trong cuộc chiến đấu chống thực dân Pháp và chiến tranh chống đế quốc Mỹ. Những chàng trai, cô gái dân quân tay cày, tay súng bảo vệ quê hương Ý Yên anh hùng. Nay, những chiến sĩ trên thương trường,  là những doanh nghiệp trẻ, những chủ trang trại tài năng, xây dựng quê hương thêm giàu, thêm đẹp. Đất Ý Yên có nhiều làng nghề truyền thống:  Nghề  mộc ở La Xuyên, nghề đúc đồng ở Yên Xá....
          Người Ý Yên chịu ảnh hưởng của Nho giáo hiếu học, trọng đạo nghĩa: "Văn là để chở đạo, văn từ Nho học mà ra gọi là đạo. Lễ là duyên tình, lễ trở về gốc gọi là tính (họ)". Những văn bia còn sót lại nói rõ tôn chỉ mục đích của đạo Nho, trọng người có học và để ghi lại công đức của những người đã từng đỗ khoa bảng các kỳ thi làm quan để thế hệ sau theo gương mà hiếu học.
          Trong hai cuộc chiến tranh cứu nước vĩ đại của dân tộc, hàng chục nghìn người con đất Ý Yên  đã cống hiến cuộc đời, tuổi xuân và xương máu cho sự nghiệp giải phóng dân tộc và bảo vệ Tổ quốc, trong đó có những người con của dòng họ Đỗ tại thôn Duyên Mĩ, xã Yên Cường: Ông Đỗ Văn Tẹo là thương binh chống Pháp, ông Đỗ Văn Tạo, Đỗ Văn Xuân, Đỗ Văn Lễ là liệt sĩ chống Mỹ. Còn có biết bao trai đinh trở về nhưng lại mang trong mình đầy thương tật: Ông Đỗ Xuân Quát mang trong mình chất độc da cam, sức hủy hoại của chất độc đó đã truyền sang thế hệ con ông; ông Đỗ Gia Viễn là thương binh...Hòa bình lập lại, các trai đinh vẫn tiếp tục tham gia nghĩa vụ quân sự để dựng xây đất nước.  Kinh tế ngày một phát triển,  cùng với xóm làng, con cháu họ Đỗ vẫn chăm chỉ làm ăn cấy cày, thương yêu và đùm bọc lẫn nhau.
          Đi nửa cuộc đời, về với quê hương, với dòng tộc, chúng tôi không chỉ được tận mắt chứng kiến  tình cảm mộc mạc mà hết sức thân thương của dòng tộc mà còn được chứng kiến tấm lòng hiếu thảo của dòng họ đối với tiên tổ, với các bậc tiền nhân, tổ phụ.  Những chàng trai đội mũ sắt, ngồi trên mâm pháo phòng không thuở nào, nay đã vào tuổi ngũ, lục tuần và đã trở thành những ông nội, ông ngoại hết lòng thương yêu con cháu. Họ trở thành những người  sản xuất giỏi, giàu kinh nghiệm kinh doanh và truyền lại cho cháu con lòng hiếu thảo với ông bà, cha mẹ.
          Thôn Duyên Mỹ ngày nay bừng lên sắc xuân mới. Những nhà cao tầng mọc lên san sát. Trên cánh đồng, hết vụ chiêm rồi tới vụ mùa. Bà con trong dòng họ Đỗ lao động cần cù, mong cho mưa thuận gió hòa, cùng với nhân dân thôn Duyên Mỹ, bà con trong dòng tộc  lại được mùa ấm no. Người có công chăm sóc, đất chẳng phụ lòng người.
           Thôn Duyên Mỹ ngày nay đã thay đổi rất nhiều, nhưng những nét đẹp văn hoá của làng thì không ai đã từng sống ở đây có thể quên. Làng Duyên Mỹ  có bốn dòng họ đã cùng nhau xây đắp nên cảnh quan của làng, trong đó có dòng họ Đỗ.
          Tại xóm Duyên Mỹ vẫn uy nghi trầm mặc một ngôi từ đường họ Đỗ được xây cất từ đời thứ 4 toạ lạc trên một khu đất rộng 1sào Bắc bộ. Tính đến nay, ngôi từ đường có tuổi gần 400 năm.  Trải qua bao biến cố thăng trầm của lịch sử, ngôi nhà thờ họ Đỗ đã xuống cấp. Con cháu Đỗ tộc đã đồng tâm hiệp lực, quyết tâm  tôn tạo lại từ đường  theo lối cổ có cải tiến để kính mời tổ tiên về ngự lãm .
           Ba chữ mặt giữa mặt tiền ""Đỗ chính tộc" đã nói lên đức nghiệp và khát vọng lớn lao của tổ tiên dòng họ, và cũng là lời nhắn nhủ con cháu đời sau.
          Trải qua 700 năm lịch sử với bao biến động, ảnh hưởng của chiến tranh, những thư tịch cũ của dòng họ hầu như không còn nhưng tài sản vô giá mà cha ông chúng tôi để lại là cuốn gia phả bằng chữ Hán. Dù cuốn gia phả đó không ghi lại tên tuổi các đời, các thế hệ được đầy đủ một cách tuyệt đối nhưng đây cũng là một thứ tài sản mà không phải dòng họ nào cũng lưu giữ được.
         Một điều vô cùng cảm động là ông Đỗ Gia Viễn, vì cuộc sống mưu sinh, phải xa quê hương nhưng lòng biết ơn tiên tổ luôn thường trực trong ông. Di chứng của chiến tranh ngày nào, ông mang trong mình đầy bệnh tật nhưng tận cùng đất nước, ông vẫn hoàn thành cây gia phả bằng chữ quốc ngữ về kính dâng lên tổ tiên. Dựa vào cây gia phả đó, c húng tôi xin trình bày một cách ngắn gọn về gia phả của dòng họ chúng tôi còn lưu giữ được cho đến năm 2010. Cụ thuỷ tổ đầu tiên của dòng họ Đỗ đến thôn Duyên Mỹ, xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định  để sinh cơ, lập nghiệp là cụ  Đỗ Quí Công Tự Phúc Lý cụ  bà : Hiệu từ Thuận. Cụ Tự Pháp Lương và cụ bà Hiệu Từ Lành ; Cụ Tự Pháp Thắng và cụ bà  hiệu từ Hiếu; Cụ Tự Phúc Thịnh và cụ bà Hiệu Từ Nguyên; Cụ Tự Quy Không và cụ bà Hiệu Từ Đức; Cụ Tự Phúc Giảng và cụ bà Hiệu Từ Hòa; Cụ Tự Phúc Quang và cụ bà Hiệu Từ Thực; Cụ Tự Huyền Khánh và bà Hiệu Từ Thái;
- Tổ cô: Cụ Đỗ Lệnh Thị Hiệu Riệu Hợp. ( rất tiếc đến đây gia phả của dòng họ chúng tôi bị thất lạc một giai đoạn)

 Đến đời cụ Tự Phúc Quảng và bà Hiệu Từ Thức sinh ra ba ngành.

Ngành thứ nhất - Ngành Giáp Chi hiện nay là Tổ ngành thứ nhất. Ngành này di cư lên Kẽm Chè - Hà Nam và lên Phủ Vân.
+  Ngành thứ 2  - Ngành Ất Chi. Hiện nay là tổ ngành thứ 2. Ngành này di cư đi Ba Trại, Nho Quan, Ninh Bình.
+ Ngành thứ 3   - Ngành Bính Chi cụ Đỗ Quí Công Húy  Loan , tự  Thiện Ru và cụ Húy Chính, hiệu Từ Chính. Ngành Bính Chi thay ngành Giáp Chi và ngành Ất Chi thờ phụng tổ đường tại thôn Duyên Mĩ, Xã Yên Cường, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định.
+ Từ quê hương Duyên Mĩ, Đến đời thứ 3 thì Đỗ tộc sinh được 5 chi
- Chi cả gồm: Cụ  Đỗ Húy Bính tự Phúc Nhân, cụ bà Nguyễn Thị Quyền hiệu Riệu Thế sinh ra 4 người con. Thứ nhất: cụ Đỗ Thị Lá (Lấy chồng Trực Mĩ). Thứ hai cụ Đỗ Văn Kiến lấy cụ bà hiệu Từ Cớt. Thứ ba: cụ  Đỗ Húy Phúc  cụ bà chính thất là cụ  hiệu Từ Roan và cụ bà tắc thất là cụ bà hiệu Riệu Thuệ.  Người thứ tư là cụ bà Đỗ Thị Ghé - hiệu Riệu Ghé.
- Chi thứ hai: cụ  Đỗ Húy Khả tự Phúc Thính và cụ  bà Nguyễn Húy Ca hiệu Riệu Vũ sinh ra 4 người con. Thứ nhất là cụ Đỗ Thị Nhượng lấy ông cố Thế ở Yên Khang. Thứ hai: cụ Đỗ Thị Năng lấy cụ Tuần Đại - họ Nguyễn tại làng Duyên Mĩ. Thứ ba là cụ Đỗ Văn Hà tự Phúc Hải - cụ  bà là Ngô Thị Duyên và cụ Hiệu Riệu Gái.. Thứ tư là cụ Đỗ Văn Viện tự Phúc Hoàn,  cụ bà hiệu Từ Linh.
- Chi thứ ba: Cụ Đỗ Húy Giác Tự Trực Dốc cụ bà  Hiệu Từ Bích húy Sỏi   sinh được 1 người con là cụ Đỗ văn Phác tự Phúc Minh cụ bà là cụ Ngô Thị Nhất - hiệu Từ Đài.
- Chi thứ 4:    Cụ Đỗ Húy Ấm tự Phúc Thẩm và cụ bà là cụ Khiếu Húy Lục hiệu Từ Lục sinh được 4 người con: là cụ Đỗ Văn Nghinh tự Phúc Ninh và hai cụ bà là bà Hiệu Từ Lựu và bà Hiệu Từ Ré, cụ Đỗ văn Cộng tự Phúc Cát cụ bà Đinh Thị Cụi hiệu riệu Hội, cụ Đỗ Văn Được Tự Trực Đàm và cụ Đỗ Văn Khai Tự Phúc Khoa cụ bà Đỗ Thị Âu hiệu riệu Ca.....
- Chi thứ 5:  Cụ Đỗ Húy Nồi Tự Phúc Thiện  cụ bà Ngô Húy Nhị hiệu Riệu Quả sinh ra 4 người con. Thứ nhất: cụ Đỗ Thị Niêu hiệu riệu Kiều(mất lúc 6 tuổi); Thứ 2: Cụ Đỗ Văn Nạp Tự phúc ..........cụ bà Ngô Thị Vi hiệu riệu Thuần và cụ bà Trịnh Thị Bơn; Thứ 3 cụ Đỗ Văn  Tảo Tự Trực Viết (mất khi 13 tuổi). Thứ 4 cụ Đỗ Văn Ân cụ bà Đặng Thị Thược.....Do phạm vi của bài viết, chúng tôi mới tóm tắt được 7/11 đời trong cây gia phả.
          Mười một đời trong dòng họ luôn thương yêu, đùm bọc lẫn nhau trong lúc tắt lửa, tối đèn. Tuy nhiên, cũng có những người vì lý do này khác mà phải xa quê hương, nhưng không bao giờ khi dòng họ có việc lớn mà không có mặt họ. Họ hướng về quê hương, nguồn cội với cả chữ “tâm” và chữ “hiếu”. Họ luôn mang theo mình lòng biết ơn với tiên tổ. Khi về thăm quê hương, không ai là không ra nhà thờ họ thắp hương nguyện cầu tiên tổ ban cho những điều may mắn. Bước vào nhà thờ, trước mắt họ là  câu đối bất hủ:

Muôn thuở lưu truyền ơn tiên tổ

Đời đời rạng rỡ đạo cháu con.

Nam Định, ngày 15 tháng 5 năm Tân Mão

        Thạc sĩ Đỗ Thị Thu Hạ

3 nhận xét: